Wednesday, October 7, 2009

Hình Ảnh Khóa 4A72

THSQ-QLVNCH

ĐĐ726 K4A72 SQTB




ĐĐ725 KHÓA 4A72 SQTB






LAD & HAI HE K4A72 VÀ NHỮNG GIÂY PHÚT THẦN TIÊN

Friday, October 2, 2009

Bình Thuận Quê Hương và Ân Tình


Bình Thuận trong tôi, quê hương với những ân tình không bao giờ nhạt phai và không thể nào quên, Bình Thuận không những là nơi chôn nhao, cắt rún của tôi, là nơi đã nuôi lớn khôn tôi, là vựa kỷ niệm của tuổi thơ tôi, mà còn là nơi tôi tiếp nhận những món nợ ân tình quí báu,
Tôi đã lớn lên từ những tháng ngày giung dăng giung dẻ ở động cát Mủi Né, tai nghe quen các lời ru mật ngọt của Mẹ chen lẫn vị ngọt dừa tươi, đến những cơn gió hiu hiu đợi Xuân sang, cùng nụ cười tươi của ngư phủ vui mừng vì trúng mùa cá nục. Bình Thuận cho tôi vị thơm ngon, mặn mà của nước mắm nhĩ, nước mắm cá cơm Mũi Né.
Tôi cũng nghe quen tiếng chuông chùa của những thời công phu sáng, tối và nhịp mõ, câu kinh đều đều của của phật tử trong làng. Tôi cũng nghe quen tai tiếng chuông đổ của nhà thờ trong xóm đạo. Hình ảnh thanh thiếu niên GĐPT đi chùa hay những cjiếc áo dài tha thướt trên xóm đạo vào mỗi Chủ Nhật cũng là những hình ảnh dễ thương và đáng nhớ. Bây giờ, những tiếng chuông chùa hay chuông nhà thờ có còn hay không, có thiêng liêng như trước hay không, hay chỉ là là những tiếng than van, ai oán. Những tà áo thướt tha mỗi Chủ Nhật có còn nên thơ nữa không?
Quê hương Bình Thuận đã tạo nên “tôi” với lời dạy dỗ của các Thầy Cô, từ trường Tiểu Học Thạch Long đến Trung Học Phan Bội Châu, bên cạnh lời dạy dỗ của Cha, của Mẹ. Tôi được học cách làm người. Tôi được học để trở thành công dân tốt bằng những bài học đầy nhân bản chứ không phải những bài học chính trị nhằm mục đích nhồi sọ như ngày nay, diễn ra chính trên quê hương yêu dấu của mình. Tôi được học để tự hào về lịch sử bốn ngàn năm văn hiến với gương anh hùng, liệt nử của các thời đại, từ thửơ phá giặc phương Bắc đến đắnh Tây, chống Nhật, hay lòng trung thành của tiền nhân, không kể họ đúng phía nào của các cuộc nội chiến, không học bẻ cong tầm nhìn về lịch sử theo chiều hướng của những người nắm quyền, không học về tiểu sử và càng không học ca tụng người nắm quyền và đặc biệt, không có một “đảng trị” để uốn nắn trẻ thơ. Chúng tôi được học về chữ hiếu _ hiếu với cha mẹ, ông bà. Chúng tôi được học làm con ngoan của cha mẹ và cháu ngoan của ông bà chứ không làm cháu ngoan cho một lãnh tụ nào khác. Chúng tôi học để tự chọn cho mình một tương lai, một lối sống. Và trong suy tư của riêng mình, mình có quyền chọn hay không một thần tượng cho mình. Không ai bắt buộc chúng tôi phải chọn một mẫu người nào đó là thần tượng cho cá nhân mình.
Tuổi thơ tôi thật hồn nhiên và đẹp đẽ như bình minh, mát mẻ như sương sớm. Tôi không có một lo nghĩ nào khác, ngoài việc học hành. Tôi có quyền suy tư và phát biểu những gì tôi muốn, tôi thích, tôi nghĩ. Tuổi thơ tôi thật sự êm đềm đúng nghĩa cho một trẻ em đang sống tại bất cứ một đất nước dân chủ nào, dù cường độ chiến tranh tại miền Nam lúc bấy giờ lên cao và những biến động cứ tiếp nối nhau. Tôi đã từng đọc báo, nghe thấy đủ mọi hướng, mọi phê bình nhưng không bao giờ chuyện thời sự làm xao động tâm hồn mới lớn.
Tại Bình Thuận, nói khác hơn là tại Mũi Né, trong thời kỳ còn thơ, tôi cũng đã từng chứng kiến những cái chết của người lính VNCH, đã từng thấy những cái chết của du kích Việt Cộng và dĩ nhiên, đó là chuyện người lớn, không ai bắt chúng tôi xen vào, không ai bắt chúng tôi suy nghĩ, không ai buộc chúng tôi hoan hô hay đã đảo người nào, bên nào, và dĩ nhiên, những cái chết ấy cũng không hề xáo động chúng tôi, ngoại trừ những trẻ thơ sống trong vùng có Việt Cộng kiểm soát. Ngay cả trong trận Tết Mậu Thân, nhà tôi ở tại đường Hải Thượng Lãn Ông, Phan Thiết, bị tàn phá, tôi đã chứng kiến cảnh người bạn cùng liên lớp, ở kế vách, là Phan Chưởng Lý, bị trúng đạn pháo kích của VC mà qua đời, chúng tôi hằng đêm phải đi tỵ nạn ở Cồn Chà, đời sống có một chút bất tiện, nhưng cũng không ai khuấy động tâm hồn của mình, không ai bắt chúng tôi đã đảo VC.
Tôi nhớ những chuyến xe đã đưa tôi đi từ Mũi Né đến Phan Thiết, qua Lại An, Kim Ngọc, Phú Long, về Phan Lý Chàm, Phan Rí Thành, Phan Rí Cửa, đến Duồng... Những chuyến xe đầy nụ cười tươi vui của khách hàng với cuộc sống trông êm đềm, hạnh phúc, không có dấu hiệu sợ hãi, không có dấu hiệu của cuộc sống vội vã trong chiến tranh, không tiềm tàng một cuộc sống khó khăn vì tham nhũng, hối lộ. Bạn hàng trên các chuyến xe không có những lo sợ bị cướp giựt bởi nhân viên công lực, cũng không có những lo lắng hay mệt mõi trong việc làm ăn như việc làm ăn dưới một chính quyền cướp giựt.
Tuổi thơ tôi ở Bình Thuận là thế đó. Sau này, khi lớn khôn hơn, khi trưởng thành hơn, tôi mới biết được rằng, sở dĩ tôi có một tuổi thơ trọn vẹn là nhờ vào một chính phủ dân chủ và tự do, dù rằng nền dân chủ ấy không tuyệt đối như các nước tân tiến ở thời bình; là nhờ vào sự hy sinh của những người lính VNCH; là nhờ vào một hệ thống chính quyền với nền giáo dục, y tế, thông tin ... tiến bộ. Dù miền Nam lúc ấy đang còn chiến tranh, nhưng xã hội lúc ấy chắc chắn hơn xa xã hội thời bình của các nước Cộng Sản, nhất là CSVN khi mà người dân lên tiếng chống ngoại xâm phương Bắc cũng bị cấm đoán.
Sống trong chế độ nào, người dân phải thi hành các nghĩa vụ trong chế độ đó. Tôi không phàn nàn việc người dân miền Bắc thi hành nghĩa vụ quân dịch, đi bộ đội, thì người dân miền Bắc XHCN cũng không nên phê bình việc chúng tôi tham gia hay thi hành nghĩa vụ quân sự ở miền Nam. Điều tôi phàn nàn là chính quyền miền Bắc xua bộ đội vào Nam, phá tan hạnh phúc mà chúng tôi có được, mà chúng tôi tự xây dựng lấy tại miền Nam. Với hai mươi năm xây dựng miền Nam trong chiến tranh, thành quả vẫn đa diện và trội hơn ba mươi năm CSVN nắm trọn vẹn đất nước trong thời bình.
Tôi không ngờ, quê hương đầy ân tình Bình Thuận đã có dịp cho tôi trả ơn bằng cách chính tôi phục vụ cho Bình Thuận.
Vâng, tôi đã bị động viên và thụ huấn tại Đồng Đế, Nha Trang khi phải dỡ dang việc học và phải xa rời “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” và “Trả lại em yêu khung trời Đại Học” như trong lời nhạc của Phạm Duy năm nào.
Ngày chọn đơn vị, như bất cứ ai, ai cũng muốn về quê mình, cho dù tình hình tại đó sôi động cách mấy. Tôi tìm tên Bình Thuận trên danh sách, nhưng tôi không thấy chữ Bình Thuận đâu cả. Tôi đã phải chọn đi xa hơn, đi về Bạc Liêu. Sau này, tôi mới tìm cách xin thuyên chuyển về Bình Thuận vào cuối năm 1974. Điều đắng tiếc là thời gian tôi phục vụ cho Bình Thuận không lâu, chỉ vài tháng, chỉ vài tháng trước khi Bình Thuận, rồi cà miền Nam rơi vào tay người CS miền Bắc.
Tôi gọi “người CS miền Bắc” không phải không có lý do. Ngay khi chiếm được miền Nam, họ thay thế hầu như toàn bộ, để người CS miền Bắc nắm quyền điều hành, nghĩa là nắm đấu các cơ sở chính quyền. Cái gì lấy được trong miền Nam, họ đều chuyển về Bắc. Sự cai trị hôm nay giống như sự cai trị của một giống dân xa lạ cai trị đất nước thân yêu của mình.
Tôi về Bình Thuận, phục vụ trong Tiểu Đoàn 249/ĐPQ. Vì vết thương tôi chưa lành nên tôi chưa đi hành quân được và được bổ nhiệm làm Phụ Tá Ban 3, đóng quân ở Bình An, sau đó là Núi Tà Dôn và suýt chết vì mìn VC, phía bắc Núi Tà Dôn.
Tôi cũng có dịp cùng đơn vị về tái chiếm Phú Long trong những ngày Phú Long bị VC chiếm đóng. Tôi từng học và xem phim cảnh chiến tranh trong thành phố tại Đồng Đế. Nhận xét đầu tiên của tôi là chiến tranh trong thành phố kiểu Mỹ vừa hao đạn vừa không kể đến số phận địch và dân trong thành phố, hay nói khác đi, đó là chiến tranh kiểu nhà giàu, kiểu Mỹ. Đối với lính VNCH, địch của chúng ta vẫn là người VN nên chúng ta vừa tiết kiệm đạn, vừa tiết kiệm máu xương của hai bên và của đồng bào. Tiểu Đoàn chúng tôi với vị Tiểu Đoàn Trưởng gan dạ _ Đại Úy Huỳnh Văn Quý, đã chiến đấu và chiếm lại từng tất đất, đẩy lui VC qua bên kia bờ bắc của Quốc Lộ 1. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn vừa đặt ở đâu thì vài phút sau, pháo bay tới đó. Có lần, Đại Úy Quý một mình đi thám sát trận chiến với chiếc áo giáp. Ông ta bị bắn vào áo giáp nhưng không sao cả. Ông về lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Đòan với sự lo lắng của mọi người, và hiển nhiên trước sự chứng kiến và thán phục của cá nhân tôi.
Chúng tôi đã tiến thật chậm, tiến theo từng tấc đất chiếm được, sử dụng hỏa lực trong tinh thần giữ gìn an toàn tài sản người dân và tiết kiệm máu xương. Anh Lê Sáu, dân Phú Long đã phê bình bài viết của tôi về trận Phú Long rằng tôi viết chưa đầy đủ lắm. Anh ta và người nhìn từ bên ngoài thấy chúng tôi chiến đấu như phim chiến tranh trong xi nê.
Đại Úy Quý bỗng nhiên trở thành thần tượng của tôi, một mẫu người chỉ huy tài ba và gan dạ.
Mấy ngày sau, tôi được gửi sang đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân với cây súng cối 81 ly và hai người lính. Tôi đã làm tròn nhiệm vụ yểm trợ Tiểu Đoàn bằng phương pháp chấm tọa độ nhanh và chính xác nhất theo kiến thức toán học tôi có từ những ngày ở Trung Học Phan Bội Châu.
Tới chiều 17/4/1975, súng cối tôi hết đạn, Trung Úy Ba ra lệnh tôi xếp càng súng, bỏ lên xe GMC biệt phái cho tôi và chờ lệnh. Ông ta kêu tôi đừng chạy trước. Tôi khẳng định với ông ta rằng tôi sẽ chết với Tiểu Đoàn, tôi sẽ chạy với Tiểu Đoàn mà thôi.
Đến tối, tôi nghe được tin báo từ một anh em ở cầu Phú Long rằng VC đã đến vị trí nhưng chưa ai khai hỏa, xin lệnh.
Tiểu Đoàn liên lạc với Tiểu Khu và được lệnh di tản về Mã Trái Bí (ám chỉ Lầu Ông Hoàng). Tiểu Đoàn di tản ngang qua Phước Thiện Xuân. Tôi chờ ở đó và tháp tùng với Tiểu Đoàn.
Ở giờ phút này. Tôi bổng thán phục người đồn trưởng Phước Thiện Xuân, người Nghĩa Quân anh dũng, quyết tử chiến, dù có phải chiến đấu trong cô đơn.
Tiểu Đoàn chúng tôi không còn liên lạc được với BCH Tiểu Khu Bình Thuận một khoảng thời gian. Đến khi liên lạc được, chúng tôi được chỉ thị về Mũi Né với Thiếu Tá Cao. Mũi Né bị bõ ngõ. Chúng tôi phải chạy bằng biển vào Long Hải để hy vọng tiếp tục chiến đấu.
Nhưng rồi, tình hình thay đổi nhanh, Tổng Thống Thiệu từ chức. Tôi trở lại Phan Thiết. Tôi trở lại Mũi Né. Rồi tôi bị đi đưa vào lao xá cũ và bị chuyển đến Cà Tót.
Tại đây, tôi gặp Thiếu Tá Thổ Thêm. Tôi quan sát ông ta. Tôi ngắm nhìn ông ta. Đây là lần đầu tien tôi trông thấy ông ta dù nghe những lời ca tụng về ông rất nhiều. Ông ta kìa. Một ông già điềm đạm. Một ông gìà bị “cùm” hai chân, bị cùm theo kiểu thời phong kiến. Ông không cưới. Ông không nói. Ông không buồn. Ông không giận. Ông không bất mãn ai. Mấy tên du kích đứng chưởi rũa ông. Ông vẫn thản nhiên. Tôi thán phục ông, thán phục tinh thần một dũng tướng “thà làm quỹ nước Nam”, thán phục tinh thần không cầu cạnh khi làm người ngã ngựa. Chính Thiếu Tá Thổ Thêm cho tôi một bài học ân tình về Bình Thuận mà tôi tự hào. Một vài ngày sau, tôi không còn gặp ông, không biết VC đưa về đâu.
Sau đó, sơn lam chướng khi đã giết nhiều anh em cải tạo chúng tôi. Một ngày, có một hoặc vài anh em bổng nhiên ngã ra chết. Chúng tôi chôn bạn mình với chiếc chiếu anh nằm làm áo quan. Chôn bạn bè, chiến hữu mình một cách thô sơ trong thầm lặng. Không ai nói lên được lời tưởng niệm. Im lặng lấp đất bạn mình. Chào trong im lặng. Chào trong nước mắt. Chúng tôi được chuyển về Sông Mao, hậu cứ Trung Đoàn 44, Sư Đơàn 23 cũ cho tới ngày được thả về.
Tôi được thả về, được tặng một câu nói của tinh thần XHCN: “... về địa phương, méo ba tròn bảy, các anh chấp hành mệnh lệnh của địa phương nếu các anh không muốn trở lại đây. Các anh phải biết im lặng và làm như điếc, như đui, như không biết gì cho dù vợ các anh bị bộ đội lấy”.
Khi trở về nhà, tôi nghe kể rằng cán bộ CS rất sợ đi ngang rừng lá. Họ đồn rằng ở đó có Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa và Đại Úy Mai Vi Thành. Lính của các ông này thường ra chận xe. Thế mới thấy tiếng tăm của anh hùng Bình Thuận.
Tôi trở về nhà. Tôi nhìn quê hương thân yêu trong ngỡ ngàng, xa lạ, Bình Thuận của tôi không còn mang linh hồn của Bình Thuận thửơ nào.
Tôi quyết định rời quê hương thân yêu, rời Bình Thuận thân thương. Và bây giờ, hơn ba mươi năm tôi vẫn còn trằn trọc kiếp sống ly hương với niềm thương nhớ Bình Thuận khôn nguôi.
Bình Thuận ơi! Bình Thuận của quê hương và ân tình. Trong cơn mơ, tôi thấy quê hương không còn bóng giặc và linh hồn Bình Thuận lại sáng hơn xưa.

Lê Văn Thắng

K3SQTB/THSQ-QLVNCH
(1/10/ 2009)

Thursday, August 27, 2009

Câu Chuyện Cà Phê và Mùa Hè Đỏ Lữa


Bạn đã uống cà-phê nhiều, bạn biết mà, muốn phà một ly cà- phê tuyệt vời đâu có khó:
Cà-phê Sẻ loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà- phê Mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hã? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưởi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị Rhum, thì Rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút Bretain vào.
Bạn hỏi tôi nước mắm nhỉ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan mới đã đời, thú vị phải không? Thì đó, bạn đã có đủ hết những gì bạn cần sao không tự pha ra mà uống, lại cứ đòi đi uống cà- phê tiệm, dị hợm không?

Nói vậy chứ tôi biết, tôi không trách bạn đâu. Cà- phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà- phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người cà- phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà- phê; “uống” câu chuyện quănh bàn cà- phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn đi với tôi, quanh quanh Sài Gòn làm vài ly chơi. Dĩ nhiên là tưởng tượng, cả bạn và tôi đều biết, đã xa rồi, biền biệt lắm rồi, ngày đó.
Tôi xin bắt đầu từ giữa thập niên 60, những năm đầu tôi sống ở Sài Gòn và cũng là giai đoạn đất nước thực sự có những trở mình to tát; những cơn lốc kinh hồn; những bùng vỡ vượt mọi giới hạn; những xô đẩy, mời gọi đầy lôi cuốn và cũng nhiều cạm bẩy.
Niềm vui và nỗi hy vọng về một vận hội mới sau biến cố 1963 qua nhanh theo với sự yểu tử tất yếu của những người đã nhân danh một cuộc cách mạng, nhưng là thứ cách mạng nửa vời, có khả năng đả phá nhưng lại thiếu bản lãnh và tâm lực để xây dựng, kiến tạo; rồi chỉnh lý, tái chỉnh lý; chính quyền quân nhân; chính quyền dân sự; Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ở Huế và các tỉnh miền Trung; Phong Trào Nhân Dân Tự Quyết ở Đà Nẵng; Phật Giáo đưa bàn thờ xuống đường; Thiên Chúa Giáo biểu dương lực lượng ở chỗ này chỗ khác; người Mỹ đổ bộ càng lúc càng đông , theo với nó là các Snack Bar, gái làm tiền và sự phá sản nghiêm trọng của nhiều giá trị luân lý và đạo đức. Chiến trường càng lúc càng khốc liệt, càng áp gần và đã trở thành một nỗi ám ảnh dai dẳng; một cơn ác mộng thường trực. Đủ thứ chiêu bài, đủ thứ lý thuyết mới mẻ và lôi cuốn được nhân danh, được nhắc đến...
Như vậy đó, Miền Nam Việt Nam những năm giữa thập niên 60; như vậy đó, tuổi trẻ Việt Nam lột xác: phải biết lớn ra, phải tự già đi trước tuổi của mình. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó đã thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ dường như tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không còn, cũng không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng đầu tiên trong đời được nhấp vào và dù muốn hay không, tuổi trẻ đã thực sự bị chi phối, và phải thường xuyên đối diện với những bất hạnh của dân tộc mình; những thảm kịch của thân phận mình và quán cà phê trở thành cái nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Thông cảm giùm đi, tập làm người lớn mà.
Những ngày mới vào Thủ Đô, tôi ở Đại học xá Minh Mạng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Trong suốt nhiều tuần lễ đầu tiên tôi đã dè dặc khi đi lại và lúc nào cũng lẩm nhẩm câu “thần chú” bạn bè mớm ch Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên và mườn tượng ra một “lá bùa” như một thứ kim chỉ nam khả dụng. Hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Dĩ nhiên nếu tính từ Đại học xá, Phan Thanh Gian được hiểu như bao gồm cả khúc Minh Mạng nối từ Ngả Bảy đến Ngả Sáu Chợ Lớn và Phan Đình Phùng phải cộng thêm khúc Lý Thái Tổ rẽõ phải đến Ngả Bảy hay rẽ trái đến Trần Hoàng Quân để về Ngả Sáu.

Về sau, khi đã khá quen quen, lá bùa được vẽ lớn thêm ra: Từ Phan Thanh Giản , rẽ phải theo Lê Văn Duyệt sẽ đến phố chính Lê Lợi, nhà sách Khai Trí, chợ Bến Thành, rẽ trái lên Hòa Hưng, Bảy Hiền; từ Phan Thanh Giản rẽ phải ở Hai Bà Trưng sẽ đến bến Bạch Đằng, rẽ trái sẽ qua cầu Kiệu, Ngả Tư Phú Nhận; cũng từ Phan Thanh Giản rẽ trái ở Đinh Tiên Hoàng sẽ đến rạp Casino Dakao, Lăng Ông Bà Chiểu và hướng ngược lại là trường Văn Khoa. Cứ như thế, cái xe Gobel hai số cọc cạch, nổ bành bạch như máy xay lúa, trung thành như một người bạn thân thiết tha tôi đi khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.

Những ngày này tôi là khách thường trực của quán Cà-phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặc quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.

Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà- phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà- phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hảnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà- phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó, việc của bạn là uống vậy thì đừng táy máy đụng vào làm hư cà- phê của tôi. Cà- phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và chờ. Yên tâm đi, đừng nôn nóng gì cả, bạn sẽ có cà- phê ngon để uống mà. Ông chủ sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường cho bạn, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà- phê như vậy mới là cà- phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Nhiều người mới đến lần đầu không biết, cà- phê bưng tới là tự lo liệu cho mình đều bị chỉnh ngay: Ông nôn nóng mở phin lỏng như vậy nước chảy ào ào còn gì là Thu Hương! Ông bỏ đường ngọt như ăn chè vậy còn gì là Thu Hương! Ống klhuấy cốp cốp kiểu đó cà- phê sẽ chua lét là ông giết Thu Hương rồi! “Thằng cha” này rắc rối thật nhưng là sự rắc rối có thể hiểu được, thông cảm được miễn là cà- phê ngon. Mà cà- phê Thu Hương ngon thiệt, ngon lắm.

Trong lãnh vực kinh doanh quán cà- phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà- phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công.

Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, có thể họ từ bên trường Luật qua, từ dưới Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc lên; từ Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Hội Việt Mỹ lại; từ Huỳnh Thị Ngà, Nguyễn Công Trứ, Vương Gia Cần, Võ Trường Toản, Thư Viện Quốc Gia tới, quanh quanh khu Tân Định, Dakao cả mà. Cũng có người từ xa hẹn nhau đến nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa”lắm, “ông” nào “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cọng với nào là “Hố Thẳm Tư Tưởng” của Phạm Công Thiện; Cho Cây Rừng Còn Xanh La”ù của Nguyễn Ngọc Lan; Nói Với Tuổi 20 của Nhất Hạnh và vân vân...

Ở Thu Hương dĩ nhiên là có thể “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt” hay nhiều thứ giải khát khác; tuy nhiên, phần lớn là nhâm nhi ly cà- phê. Thu Hương nổi tiếng như vậy; ông chủ điệu như vậy, dù rành hay không cũng phải ráng tỏ ra sành điệu với người ta chứ! Lại còn phải cố bậm môi kéo Basto xanh cho có vẻ phong trần. Cứ như thế mà trầm ngâm suy tư, rì rào tâm sự; đốt bao tử, đốt phổi và đốt thời gian. Nghĩ lại thật phí phạm và đáng tiếc nhưng hồi đó thì không thấy như thế. Phải như vậy chứ sao! Thời chiến mà, buổi nhiễu nhương mà!

Ngày đó tôi thường ngồi Thu Hương với VCT, một người bạn đang học năm cuối ở trường Y Khoa, anh là người rất mê giáo sư Trần Ngọc Ninh, coi ông là một nghệ sĩ tài hoa, một tay dao bậc thầy trong ngành giải phẩu và vẫn thường say sưa kể việc thầy Ninh có thể cầm lưỡi dao lam khẻ vào tập giấy quấn thuốc và cho biết trước là sẽ rạch đúng mấy tờ. Bạn tôi đúng là người trời sinh ra để làm thầy thuốc, anh muốn xoa dịu mọi khổ đau và không chịu được những điều tàn nhẫn, thô bạo. Hồi sinh viên LKSN té lầu chết ở trường Y Khoa, báo đăng nói là tai nạn nhưng không biết từ đâu bạn tôi khẳng định đây là một vụ ám sát, thanh toán lẫn nhau và anh đau đớn, tức giận lắm. Người với người, chả lẻ không còn cách nào để có thể đối với nhau phải chăng hơn hay sao? Câu hỏi này theo anh rất lâu; anh ra trường, làm y sĩ tiền tuyến, ở lại với thương bệnh binh ngày thành phố di tản và vào tù. Đến lúc này anh đã có câu trả lời cho điều ám ảnh nhiều năm trước: Không phải không có cách mà là dường như người ta không cần và cũng không muốn phải chăng với nhau. Đau thật, nỗi đau quặn thắt tim gan.

Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may Thiết Lập, vậy bạn có biết cà-phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó chéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung Tâm Thực Nghiệm Y Khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng không biết do ai đặt, gọi riết thành quen chứ thực sự dường như quán không có bản hiệu, và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cữa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.

Cà- Phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn, đặc biệt là loại nhạc “mệt mỏi” cở “đại bác đêm đêm...” hay “đàn bò vào thành phố...” đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà- phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán - những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút - đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly.

Đến Hồng không chỉ có nghe nhạc về quê hương, chiến tranh và thân phận; ở đây còn có thể đọc về những điều đó. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà-phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ.
Hồi Nguyễn Đăng Trừng chuẩn bị ứng cử vào Tổng Hội Sinh Viên, ban tham mưu của anh ta thường gặp nhau ở cà-phê Hồng và khi Trừng thành chủ tịch, Đặng Tấn Tới phụ trách tờ Nội San Sinh Viên, mặc dù lúc đó đã có trụ sở ở số 4 Duy Tân, rất nhiều anh em cũng vẫn thường kéo nhau đến cà-phê Hồng. Những ai hồi đó nhỉ? Đông lắm và vui lắm; vui và có ý nghĩa vì dường như tất cả đều muốn làm một điều gì. Tôi nói dường như bỡi vì, nhiều năm sau thực tế đã chứng minh là không phải chỉ có những người đến với phong trào sinh viên vì nhiệt huyết và lý tưởng, muốn một miền Nam tốt hơn, muốn bảo vệ hữu hiệu và xây dựng đất nước hoàn hảo hơn mà còn một số khác, dù không nhiều, đến với chủ tâm lợi dụng, coi phong trào như một cơ hội để phục vụ cho những ý đồ đen tối mà họ đang theo đuổi.

Sau này, khi đã đắc thời, người cộng sản vẫn thường hảnh diện nhắc đến phong trào sinh viên, coi đó như là sản phẩm của họ. Ai cũng biết là không phải như vậy. Thật tội nghiệp cho những người cứ phải giả vờ như không biết; cứ phải ra rả như cái máy lặp đi lặp lại những điều mà chính họ cũng biết là không có thật.

Tôi đã đi quá xa rồi phải không? Xin lỗi, cho tôi được mượn cơ hội này để nói về tuổi trẻ của chúng ta một chút, tôi đang trở lại với cà-phê Hồng đây. Hồng là ai? Tôi không biết, quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó, Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xan lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và đều ít nói, ít cười; cái kiểu ít nói ít cười làm chết người ta. Còn cái dáng đi nữa, bạn còn nhớ không? Làm ơn nhắc giùm để tôi tả cho chính xác đi, khó quá. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có những lời hát khó giải thích nhưng dễ cảm nhận như “vết lăn, vết lăn trầm” hay “vết chim di” gì đó có lẽ có thể mượn để hình dung ra dáng đi của mấy cô chủ cà-phê Hồng; nó nhẹ lắm, êm ái thước tha lắm và cũng lặng lờ khép kín lắm. Chính cái vẻ lặng lờ vừa như nhu lệ thẹn thùng, vừa như kênh kiệu kêu sa, vừa lãng đãng liêu trai đó đã làm khổ nhiều trái tim trai trẻ lắm, rất nhiều.

Giữa những năm 80, sau nhiều năm bầm dập ở nhiều trại giam khác nhau, tôi về lại Sài Gòn và có nhiều lần đi qua đi lại ở đường Pasteur. Cà-phê Hồng không còn, dãy phố nhỏ buồn thiu, im lìm và trống vắng như nét ảm đạm chung của toàn thành phố một thời rộn rã của chúng ta. Đối diện nơi quán cũ, gần cuối bờ thành viện Pasteur là một bãi rác khổng lồ, ruồi nhặn đen gật và mùi hôi thối nồng nặc, trùm tỏa; ở đó, hàng trăm ông lão bà cụ; hàng trăm trẻ em trai gái tranh nhau giành giật, đào móc từng chút sắt vụn, từng mảnh nhỏ nylon. Tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn cảnh não lòng này và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Anh em ta có bao giờ tự thấy là dường như mình đã đắc tội, đã phụ lòng, đã không làm hết, đã không cố gắng đủ để bảo vệ cho những gì cần bảo vệ, giữ gìn hay không? Và những người bên kia, có bao giờ nghĩ lại và tự hỏi họ đã nổ lực để đạt đến điều gì? có xứng đáng cà cần thiết không? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào? Ai có thể trả lời được về số phận của những con người nhỏ nhoi trong nổi tan tác chung của cả một dân tộc!

Viện Đại Học Vạn Hạnh mở cữa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý: Hào quang của phong trào Phật giáo đấu tranh từ nhiều năm dồn lại, cùng với những tên tuổi chính trị Trí Quang, Thiện Minh, Huyền Quang, Hộ Giác...,những cổ thụ văn hóa Minh Châu, Mãn Giác, Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tôn Thất Thiện...đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân nhất.

Ở Sài Gòn, ngoài viện Đại Học Vạn Hạnh và các trường Bồ Đề, Tổng vụ Giáo Dục và Thanh Niên thuộc Giáo Hội Phật Giáo còn nhiều cơ sở trực thuộc khác như cư xá Quảng Đức ở đường Công Lý, trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở chùa Ấn Quang..., nói chung là dân Vạn Hạnh có nhiều chỗ để lui tới, để “dụng võ” lắm; tuy nhiên, dường như “tổng đàn” của Vạn Hạnh không nằm ở những nơi chốn “thâm nghiêm” này, nó đặt tại một tiện cà-phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó chéo về phía chợ Trương Minh Giảng.



Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thước, có vẻ chữ nghĩa. Chừng đó là quá đủ, quá đạt để phe ta tụ lại: Các anh chị em thuộc khối Văn Thể Mỹ của thầy Phạm Thế Mỹ tấp vào nói chuyện văn nghệ; nhóm làm thơ trẻ Nguyễn Lương Vỵ, Võ Chân Cửu -lúc đó đang lên và đang chiếm đều đặng nhiều cột thơ trên báo Khởi Hành - ngồi đồng từ sáng đến tối để...làm thơ; những “chuyên viên xuống đường trong sáng” chụm đầu lại để bàn kế hoạch; những “chuyên viên lợi dụng xuống đường” cũng chụm đầu lại để bàn quỷ kế và đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau ở Nắng Mới.

Đại học Vạn Hạnh có một phân khoa mà bên Văn khoa không có: Phân khoa báo chí. Vạn hạnh còn có một lợi thế như là một sự ưu đãi đặc biệt vì nhu cầu giáo dục là phân khoa sư phạm thi tuyển và được tăng một tuổi theo luật động viên. Vì lẽ đó anh em đến với Vạn Hạnh đông lắm; không khí ở Vạn Hạnh hào hứng và sôi nổi lắm. Mỗi lần có đợt tranh đấu, xuống đường, ngày Vạn Hạnh chạo rạo, đêm Quảng Đức không ngủ, sáng Nắng Mới không có chỗ ngồi. Vạn Hạnh như một lò lửa, một điểm nóng, một trung tâm. Tiếc thay đàng sau những nhiệt tình trong sáng; những lý tưởng vô cầu là những bóng đen rình rập, những nanh vuốt hờm sẵn.

Hình như Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh, sống theo Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nó chứng kiến cảnh Nguyễn Tổng cởi áo thầy tu, đi tiếp thu một trường Trung học; Nguyễn Lương Vỵ bỏ bộ mặt hiền thi sĩ đóng vai mặt lạnh ở phòng giáo dục Phú Nhận; Vỏ Như Lanh xông xáo từ Thành Đoàn qua báo Tuổi Trẻ; Trần Bá Phương làm chúa một trại giam, gọi đẹp đẽ là hiệu trưởng trường giáo dục lao động và còn nhiều lắm, kẻ thù mai phục và bạn bè bạc bẽo trở cờ; tất cả thành một bầy kên kên nhởn nhơ trên nỗi khổ của anh em, nỗi đau của cả dân tộc.

Ngày tôi về lại Sài Gòn sau nhiều năm phải xa, cà-phê Nắng Mới không còn; Đại học Vạn Hạnh biến thành một cư xá sinh viên, áo thun quần lót treo la liệt từ trên xuống dưới, quang cảnh vừa đìu hiu vừa bát nháo nhìn thấy mà đứt ruột. Nghe nói núi sách của thư viên bị lấy hết, đốt sạch. Thầy Minh Châu dời lên một Phật học viên nhỏ trên đường Võ Di Nguy gần Trung Tâm Tiếp Huyết; thầy Quảng Độ bị quảng thúc đâu đó tuốt ngoài Bắc; thi sĩ, thầy Bùi Giáng lang thang ngạo đời ở đầu phố cuối chợ; không lâu sau đó Đại Đức Tuệ Sĩ, Trí Siêu lần lược bị bắt. Vạn Hạnh không còn gì, thật sự không còn gì. Những con người cũ tứ tán muôn phương. Cái nơi chốn đầy sức sống và niềm tin ngày nào giờ tiêu điều buồn bã như giòng kinh nước đen uể oải dưới chân cầu Trương Minh Giảng.

Mấy năm trước đây tôi có được đọc một bài báo, nội dung của nó cũng thường thường không có gì đặc biệt lắm; tuy nhiên bài báo có nhắc đến một chi tiếc làm tôi ngẩn ngơ nhiều ngày. Tác giả đã nói về một quán cà-phê thân quen: Quán chị Chi ở Dakao. Thật ra đây không phải là quán cà-phê mà là quán trà; mà thật ra có lẽ cũng không thể gọi là quán trà mà chỉ có thể nói là chỗ uống trà ở nhà chị Chi mới hoàn toàn đúng. Bạn hãy tưởng tượng giùm tôi cái khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp hát Văn Hoa Dakao, ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè; ở đó không có cái ồn ào náo nhiệt như ngoài Trần Quang Khải, khúc đổ về Tân Định, cũng không có cái tập nập mắc cưởi của đoạn Lê Văn Duyệt hướng về Lăng Ông; nó trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm. Nhà nào cũng nhỏ, cất cao hơn mặt đường mấy bực tam cấp xi măng, mở cữa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi ở một trong những ngôi nhà này. Làm sao để nhận ra? Không biết, tôi đã nói là không phải quán xá gì cả mà, chỉ là tới nhà bà chị uống trà chơi vậy thôi và đã là nhà bà chị thì phải tự biết chớ, cần gì hỏi. Phòng khách- được gọi là quán- chị Chi nhỏ lắm, chắc độ chín mười thước vuông gì đó, chỉ đủ chỗ để đặc ba bốn chiếc bàn nhỏ. Nhà không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Giang sơn của chị Chi chỉ có vậy và chị mở “tiệm”. Khách đến với chị Chi không phải coi bản hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo trên đài địa phương hay đọc giới thiệu trên báo chợ báo bán gì cả, mà hoàn toàn do thân hữu chuyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà-phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chác nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho vài hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc , ấm đôi và ấm bư. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh - loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm vô cùng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm.


Đến với chị Chi có cái thú vị là được hưởng một không khí thân mật, thoải mái như đang ngồi trong nhà của mình; điều thích nữa là không bao giờ phải bận tâm đến chuyện tiền bạc gì cả; muốn đến lúc nào cứ việc đến, không có tiền thì chỉ cần ngồi cười cười, chị Chi sẽ nói giùm cho bạn điều bạn khó nói: “cuối tháng chưa lãnh măng đa phải không? Uống gì nói chị lấy”. Chưa hết đâu, khi đã thân, đã thành “bạn của chị Chi”, hai lần mỗi năm vào khoảng trước Giáng Sinh và hăm ba ông táo về trời bạn sẽ được chị Chi kêu “đến chị chơi”. Đến chị chơi có nghĩa là đến uống trà mà không phải trả tiền và nếu gặp lúc chị Chi vui và khoẻ, “chơi” còn có nghĩa là có bánh bèo tôm chấy hay bánh hỏi thịt nướng kèm thêm nữa.
Khách của chị Chi không đông, giá nước ở chị Chi không đắc vì vậy chắc chắn chị Chi không sống bằng “cữa tiệm”, chị bán cho vui, bán mà như kêu anh em góp chút tiền cho chị để chị nấu giùm chút nước uống cho vui. Mà quả tình ở chỗ chị Chi vui thật, vui vì những đậm đà tình nghĩa.

Hồi đó chị Chi đã khá lớn tuổi, bây giờ sợ chị đã lìa xa chúng ta hoặc nếu không thì cũng không còn đủ sức để nấu nước giùm cho ai được nữa. Quán chị Chi chắc không còn nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị Chi bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cu õ- Tôi nghĩ anh chị em cũng không hẹp lòng gì mà không cho tôi nói lời đại diện này - Cuộc đời chúng ta đẹp vì những niềm vui nho nhỏ không tên; Sài Gòn của chúng ta đáng nhớ vì những dễ thương nho nhỏ không tên. Chị Chi, chị đã cho chúng tôi những niềm vui ấy; chị đã góp cho Sài Gòn một phần của cái dễ thương ấy. Cảm ơn chị.

Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà-phê mới, những quán sau này thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Café Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng...Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ - Hình như là Đào Duy Từ - gần sân vận động Cộng Hoà có một quán cà-phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giả thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lang xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướng của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những bi cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất ...Đa La.

Ngày khai trương, Đa La đã mời được Linh Mục Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt đến dự và đã chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hữu Hà... Chừng đó là đủ chết người ta rồi, dân Đại Học Xá kéo qua, dưới Sư Phạm, Khoa Học lên; Y Khoa; Phú Thọ xuống; cả Petrus Ký, Chu Văn An nữa là đủ bộ, quanh quanh khu Ngả Sáu chấm Đa La và dồn tới. Những ngày đó Đa La đông vui lắm, nó trở thành một chốn tụ tập hết sức văn nghệ; nó đã chứng kiến sự nở hoa của nhiều mối tình và cũng chia xẻ sự héo tàn của nhiều mối tình khác, nó có thể tiếp tục buồn vui với những người bạn trẻ như thế nếu như đất nước không có những đột biến to tát: Biến cố Tết Mậu Thân với cảnh nhà cháy người chết ngay tại thủ đô Sài Gòn; rồi tổng công kích đợt hai; rồi tổng động viên lần thứ nhất năm 1968; quân sự học đường; tổng động viên lần thứ hai 1972; tất cả những điều đó đã làm thay đổi rất nhiều nhịp sống chung và tát động sâu xa đến suy nghĩ và hành động của từng con người. Đa La vắng dần những người khách cũ, lưa thưa có thêm những người mới với dáng vẻ ủ dột trầm ngâm hơn, lác đác những bộ đồ vàng quân sự học đường, những bộ đồ phép Thủ Đức, những bộ đồ lính thứ thiệt của nhiều quân binh chủng vội đến, vội đi. Đa La lần lược nhận được tin tức về nhiều người bạn cũ không bao giờ còn trở về; Đa La tiếp tục có thêm nhiều buổi cà-phê cuối cùng để tiễn những người đến lược ra đi. Đa La không vui và những người bạn của Đa La cũng không vui bỡi vì cả đất nước không vui, cả dân tộc đang muộn phiền.

Đa La còn đến lúc nào? Đóng cữa bao giờ tôi không biết, có điều là đã có thời Đa La giống như một tri kỷ của nhiều người, nó cũng buồn, cũng vui, cũng hy vọng, cũng rã rời, cũng phấn chấn, cũng mệt mỏi, cũng khóc, cũng cười, cũng muốn ngoan ngoản xây dựng, cũng thích tung trời phá phách, cũng tỉnh, cũng điên, nói chung là nó chung chịu với bạn bè những tháng ngày nhiều chuyện, dễ thương lắm và đáng nhớ lắm, một chút Sài Gòn.



Hồi đã vào Thủ Đức tôi còn rất nhiều dịp để ngồi cà-phê Hân, đường Đinh Tiên Hoàng. Thật ra phải nói tôi bị bắt buộc phải ngồi ở đó vì thời gian trong quân trường tôi thuộc loại con bà phước; gia đình ở xa, người yêu thì mặc dù đã quen từ thời còn ở tỉnh nhỏ quê nghèo những cũng vẫn chưa qua được giai đoạn “mặt ngoài còn e”, cuối cùng tôi chỉ còn bạn bè. Hồi đó mỗi lần đi phép, xe quân trường sẽ thả xuống và đón về ở khu Mạc Đỉnh Chi, gần Hội Việt Mỹ; tuy nhiên dạo đó tình hình sôi động lắm, quân trường lúc cắm trại, lúc xả phép, không chắc lúc nào có thể về được vì vậy tôi chỉ có thể nhắn chung chung là “đón tao ở Hân”, phòng hờ có trục trặc gì thì bạn bè kể như đi uống cà-phê chơi với nhau, đỡ sốt ruột. Tôi thật sự vui mừng và cảm động, chưa bao giờ tôi đến Hân mà không có người chờ, cũng chưa bao giờ tôi chờ ở Hân mà không có người đến. Bạn bè! Biết nói sao cho đủ cái nghĩa đặc biệt của hai chữ ấy.

Hân là quán cà-phê thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự chính trị, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy tốt lắm, đáng trân trọng lắm chứ; tuy nhiên, dường như có một chút gì rất xa, rất lạ với một người lính. Thật tình tôi chỉ là một người lính bất đắc dĩ, lệnh tổng động viên giới hạn tuổi ở đại học, ông tướng Đạm không ký giấy hoãn dịch nữa thì trình diện; tôi rời Sài Gòn cũng chưa được bao lâu, ở Thủ Đức thì cũng chỉ mới là lính tập sự, lính sữa; đã có tối nào nhìn toán tiền đồn lầm lũi đi vào đất địch để phục kích, để lấy tin đâu mà hiểu được nỗi cô đơn; đã có đêm nào trùm poncho ghìm súng ngồi dưới mưa giữa vòng vây quân địch đâu mà biết được cái cảm giác trống vắng, khiếp hải; đã bao giờ ôm thân thể thủng nát của một đồng đội rạp người dưới làn đạn thù, nhìn máu chảy cho đến hết đâu mà hiểu được nỗi bi uất, tuyệt vọng; vậy mà tôi đã tự nhân danh là một người lính để cảm thấy xa la,ï lạc lõng với Hân, với Sài Gon. Kỳ cục không? Cảm giác của tôi lúc ấy lạ lắm, khó nói lắm; nhưng tôi không có thì giờ để suy nghĩ, để phân tích điều gì, tôi đang đi phép mà, cho tôi nghỉ một chút, chơi một chút dù cả lúc chơi, lúc nghỉ tôi đều bị cái cảm giác lạ lạ, khó nói kia ám ảnh. Sau này, Nhà văn Thế Uyên có viết một quyển tạp bút tựa là “Muời ngày phép của một người lính” tôi đọc và thấy nhẹ nhàn thơ thới lắm; đại khái tác giả đã nhân danh một người lính mà đặc vấn đề với những con người, những cách sống, nói chung là với một hậu phương mà ông cho là bất xứng. Tôi nhẹ nhõm vì ông Thế Uyên đã nói giùm tôi cái mà tôi gọi là cảm giác khó nói ở trên.

(Đoạn sau đây lẽ ra không có trong bài viết này, nhưng tôi vừa nhắc đến nhà văn Thế Uyên với một cách nói được hiểu như là một sự mến mộ vì vậy nên tôi xin phép nói thêm vài đều trong cái ngoặc đóng này. Đúng, có một thời gian rất dài tôi mến mộ ông Thế Uyên. Tôi mê Thế Uyên từ truyện ngắn “ Những Kẻ Thuộc Bài”. Đại khái chuyện muốn nói là mỗi chúng ta đều học được từ sách vở, học đường, tôn giáo và nhiều nguồn giáo dục khác những điều tốt đẹp; thật đáng buồn, thực tế không giống như những gì ta được dạy. Trong cuộc đời có quá nhiều những kẻ không thuộc bài, có quá nhiều những ngụy quân tử, nói rất đúng bài vở nhưng chính họ lại làm khác và Thế Uyên nhân danh một người thuộc bài, phê phán về điều đó. Tôi đã từng có lúc bạo gan nghĩ là mình cũng thuộc loại thuộc bài nên hết sức thông cảm và chia xẻ nỗi buồi của Thế Uyên, ủng hộ Thế Uyên. Về sau Thế Uyên lập nhà xuất bản Thái Độ, lại đúng nữa, xã hội của chúng ta quả là có nhiều vấn đề cần tỏ thái độ và tôi lại tiếp tục ủng hộ Thế Uyên dù tôi chưa bao giờ gặp gỡ hay quen biết gì với ông. Tôi giữ một tình cảm rất đặc biệt về Thế Uyên cho đến năm 1979. Hồi đó các trại tù đã được thăm nuôi và tôi được bạn bè lén lút gởi cho tờ báo Đứng Dậy hay Đối Diện gì đó của nhóm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan; trong tờ báo này có một bài viết của Thế Uyên, anh ta kể về một cái Tết ở trại giam Kàtum. Nhà văn lớn có khác, tả tết thì đúng là tết, có thịt cá bánh trái ê hề, có cà-phê thuốc lá vui vẻ, có giọng nói tiếng cười “ hồ hỡi phấn khởi”, có những khuôn mặt rạng rỡ tin yêu, có các cán bộ khoan hòa nhân ái như những nhà tu; đặc biệt là cảm tưởng sung sướng xúc động của tác giả khi được đứng nghiêm chào lá cờ máu trong ngày đầu năm. Tôi đọc bài báo mà buồn lắm, buồn ghê gớm lắm. Tôi biết là trong hàng ngũ những kẻ không thuộc bài đã có thêm một người và tôi tự buộc mình phải quên hai chữ Thế Uyên đi, thật đau lòng nhưng phải quên, nhất định).

Tôi xin trở lại với cà-phê Hân và xin làm ơn bỏ qua một bên cái cảm giác xa lạ của riêng tôi. Hân vốn tự nó là một nơi chốn hết sức đáng yêu và chắc chắn là một nơi chốn rất đáng nhớ của nhiều người. Về sau, ở đối diện với Hân người ta mở thêm quán cà-phê Duyên Anh ( Không biết nơi này có liên quan gì với nhà văn Duyên Anh hay chỉ là tên đặt bỡi một người chủ ái mộ nhà văn này). Hai tiệm cà-phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, cả hai đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Thống Nhất - Cường Để và các anh em bên khu Đài Phát Thanh, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị hướng Phan Đình Phùng, Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ mỉm cuời và sẽ thấy rất gần gũi, rất thân thiết.

Tôi vừa mời các bạn đi thăm một vòng mấy quán cà-phê mà chắc nhiều anh em trong chúng ta từng quen biết, từng có những gắn bó thế này hay thế khác. Tôi xin ngừng ở đây nhưng anh em có thể tiếp tục đến những nơi chốn kỷ niệm khác của riêng mình. Tôi biết anh em đều là những người nặng tình cho nên tôi tin là mỗi hẻm nhỏ, mỗi góc phố, mỗi hàng cây, mỗi cổng trường đều thấp thoáng bóng hình của tuổi nhỏ, của quê xưa. Tôi xin nhắc là anh em nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kiến cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêngtư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối với nhau cũng rất đẹp. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, tặng tất cả những ai còn có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở đâu đó, nơi quê nhà.

Nguyễn Mạnh An Dân


Wednesday, March 11, 2009

NHỮNG NGÀY MỘNG DU




Đêm tưởng chừng như vô tận rồi cũng trôi qua. Thức giấc mà cứ mong trở lại trong mơ, vì hiện thực lại kéo tinh thần xuống tới mức choáng váng khi gượng dậy. Có tiếng chuỵên trò từ nhà sau vọng lên. Hình như Trung Sĩ Trần Sự đang nói về tôi.

- Ổng độc thân. Không có ai ngoài này. Thấy cũng tội. Hôm qua cứ sợ ổng tự tử.

Câu nói làm tôi lại nằm xuống sofa, nghĩ ngợi về lúc ngồi chết trân trên xà lan khi nghe nói Đà Nẵng đã bị địch tràn vào trưa hôm qua. Thật tình thì tôi không có chút suy nghĩ nào trong đầu, ngay cả lúc chằm chằm nhìn vào nòng súng. Chỉ là phút bàng hoàng dẫn đến phản xạ của vô thức, không hơn không kém.

Còn bây giờ là sự bất an, là một cay đắng rất phập phồng. Sợ. Lo. Buồn. Chán nản.Và tuyệt vọng. Đủ thứ tình cảm tiêu cực đang hành hạ tôi một cách vô tội vạ. Đủ mọi đường toan tính. Đủ mọi hình thức hy vọng để rồi lại quay về với sự thật phũ phàng là tôi đang bí rị. Một con cá nằm trên thớt không hơn không kém.

Có bước chân từ nhà sau lên tới phòng khách. Tôi nhắm mắt nằm im. Bước chân dừng lại một vài giây nơi bàn kiếng, có lẽ là để xem coi tôi còn ngủ hay đã thức, rồi nhè nhẹ tiến ra cửa. Liền sau đó là tiếng dép của người thứ nhì, cũng ra phía cửa chính.

- Bên ngoài đông lắm. Giọng của chị Sự thì thào.

- Mở hé cửa ra coi ai đi ngoài đó. Là tiếng của người chị cả anh Sự.

Có tiếng cánh cửa gổ rụt rè nhẹ mở, rồi tiếng của chị Sự khẽ reo lên.

- Đông lắm chị ơi. Xem kìa.

Đến lúc này mới nghe văng vẳng tiếng loa phóng thanh kêu gọi vãn hồi trật tự kèm theo những bản nhạc mang âm hưởng của Trung Hoa từ ngoài vọng đường vọng vào, tiếng được, tiếng mất.

Tôi tò mò nên xoay lưng cho có tiếng động. Hai người đàn bà khép cửa, quay trở vào phòng khách. Khi thấy tôi ngồi dậy, chị Sự lên tiếng trước .

- Thiếu úy …

- Thiếu úy gì nữa chị Sự ơi. Tôi lật đật chận lời. Gọi tên, hay gọi là em cũng được. Tôi nhỏ tuổi hơn anh chị mà.

- Thôi gọi là cậu Huy, hay chú Huy nha. Chị cả của anh Sự góp lời .

Tôi dạ rồi xin phép xuống nhà sau. Anh Sự đang cho con ăn sáng dưới bếp, nét mặt bơ phờ và xanh xao. Chúng tôi nhìn nhau, không có lời nào. Hai đứa bé hồn nhiên ngồi tại bàn, vòi vĩnh một thiếu niên mà anh Sự gọi là Út. Hình như bộ đồ mà bác Cả lấy cho tôi mặc là của em này.

Tôi không hỏi, và anh Sự cũng không nói gì thêm về gia cảnh của bà chị. Chúng tôi pha cà phê rồi lên nhà trên ngồi trầm ngâm. Lại không biết phải nói với nhau chuyện gì vì mọi thứ đều đã kể cho nhau nghe suốt đêm qua. Sau cùng thì Anh Sự lên tiếng trước.

- Hay là ông theo tụi này về Duy Xuyên đi. Nói quở ông đừng giận. Lỡ như chỗ này thành tụ trái độn thì mình còn có đất sinh sống để chờ thời.

Tôi im lặng vì không biết phải nói sao. Tình thế thì mù mờ. Trong đầu chỉ một niềm lo lắng suốt từ cả tuần qua nên đã cùn mằn mọi suy nghĩ. Nghĩ tới nghĩ lui thì cũng chỉ dẫn đến một kết luận đáng buồn: mình đã không làm được gì khác hơn là phải chờ đợi một tương lai do kẻ khác áp đặt. May là trong giờ phút này còn nhận được sự quan tâm và tình nghĩa của một người chung đơn vị nên dù bất an cũng cảm thấy ấm lòng.

Sau bữa ăn trưa thì tôi quyết định từ giả anh chị Sự và người chị cả tốt bụng, và cho biết sẽ đi dò hỏi tin tức về tình hình chung rồi mới tính tới chuyện làm gì, hay ở đâu. Anh Sự cứ bịn rịn mãi làm tôi cũng bùi ngùi. Ai cũng sợ tôi tuổi trẻ nóng nảy, dễ làm liều nên nhắc đi nhắc lại hoài lời khuyên về Duy Xuyên tá túc, vừa không sợ lộ tông tích lại vừa có chỗ dung thân rồi tính tiếp. Nhưng lòng tôi đã định và không muốn làm bận bịu thêm cho vợ chồng anh Sự, nên dằn lòng nói câu từ giã. Anh Sự tiễn tôi ra cửa, bắt tay nhau mà lòng như bật khóc. Tôi cảm thấy bùi ngùi, lòng rưng rưng như vừa từ giả chính gia đình mình.Vài nụ cười gượng vui, thêm một hai câu cảm ơn là tôi vội vã đi ngay, không dám quay đầu nhìn lại.

Ngã ba Cây Lan ! Góc tam giác chia hai ngả dẫn vào phố chính của Đà Nẵng hôm nay vẫn đầy nghẹt người và xe. Xe của bộ đội chuyển quân, và xe của dân chúng “ hồi cư ” sau một ngày bỏ đi không kết quả. Vẫn là những dáo dát, thất thần, chằm chằm, dò xét. Nhưng hôm nay, trong ánh mắt đã pha lẫn chút tò mò từ cả hai bên: người cũ và chủ mới.

Kẻ ngẩng đầu nhìn lên cao ốc, người quay ngang, bước ngược, để nhìn cho trọn sự bề thế của những ngôi nhà nhiều tầng. Họ, những chủ nhân mới của phố phường Đà Nẵng, đều có vẻ bỡ ngỡ, pha lẫn chút dò xét mặc dù miệng tươi cười, tay vẩy vẩy với những kẻ mới hôm qua còn là dân của “ Ngụy ”. Trong ánh mắt của người dân cũng không dấu niềm lo lắng. Những nụ cười chào đón có lẽ chỉ để khỏa lấp nỗi ưu tư hay ít ra cũng đánh lừa tâm trạng phật phồng nếu không muốn nói là sợ hãi. Cứ như thế mà đo lường nhau. Cứ như thế mà hội nhập vào nhịp sinh hoạt vô hồn của thành phố trong ngày đầu thay đổi chế độ.

Đà Nẵng vừa thay áo mới. Lịch sử đã sang trang vào một ngày xám trời, lạnh lẽo. Làn sóng đỏ đang phủ tràn lên thành phố nửa triệu người, không kể những ai ghé qua để tạm lánh nạn. Cờ bên trên, người phía dưới. Xôn xao! Chỉ mới một ngày thôi mà cờ treo ngợp trời, trên các tầng lầu, trên khung cửa sổ và cả trên mọi thứ xe cộ. Cờ đỏ phất phới, băng đỏ cũng ngập đường. Những người “ quyết tử “ của hôm qua vẫn một thái độ vênh váo trên các xe Jeep, xe Lam ba bánh và cả xe dân sự. Họ tập trung từng nhóm tại các giao điểm, các trục lộ chính, để giữ gìn an ninh, dàn xếp trật tự hay dùng xe chạy lòng vòng, tay loa, tay súng, cứ vậy mà phát thanh mọi thứ tin tức trên đời.

Những con đường tôi thẫn thờ đưa chân qua đều mang một hình thái sinh hoạt, một âm thanh hỗn độn, vô hồn dù đầy màu sắc, màu của rừng cờ và rừng người. Từ Hùng Vương, Nguyễn Hoàng, Quang Trung, Duy Tân, về tới Trần Cao Vân, nơi nào cũng hối hả như nhau, dồn dập một cách máy móc. Nhưng bên cạnh đó còn những sôi nổi và âu lo khác. Trong dòng người xuôi ngược trên đường có cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng, con cái của những ai còn thất lạc nhau. Họ đi tìm nhau giữa những não nề, thất vọng, chao đảo, mù mờ lẫn đau khổ tột cùng, vì có tin đồn rất nhiều người bỏ mạng trên biển đang được vớt lên và đưa về các bệnh viện trong thành phố để thân nhân nhận diện.

Trong số những người khốn khổ đó có gia đình của Trần Hiền, một đồng môn thời trọ học trên ĐàLạt, làm sĩ quan tiếp liệu cho Liên Đoàn 14 BĐQ. Chỉ còn bé Vi và bà mẹ ở nhà. Mọi người khác đều tất tả ngược xuôi đâu đó để dò la tin tức của người bạn gốc Tiểu Đoàn 21 BĐQ đã không có tin tức từ đêm 28-03.

Tôi ngồi an ủi mẹ của Hiền chưa bao lâu thì vợ chồng Thuận, em kế của Hiền về đến.

- Không có tin tức gì bên Duy Tân. Ba và thằng Nam đang qua Bệnh Viện Việt Đức. Thuận nói sau tiếng thở dài. Con và anh Ngàn về nghỉ một chút rồi qua Sơn Trà và Non Nước dò la tin tức. Nghe nói bên đó cũng có xác người trôi vào. Nhiều lắm.

Tôi dành phần qua bán đảo tìm kiếm thì Ngàn chận ngay lại.

- Không được đâu. Còn lộn xộn lắm anh Huy ơi. Nghe nói là sáng nay có một nhóm Thủy Quân Lục Chiến từ Hà Nha về tới Chợ Cồn là đụng độ với bộ đội vì không chịu bỏ súng. Hai bên đều có người chết và tụi nó đang đi tìm tàn quân, nhất là sĩ quan như anh đó. Để tụi em đi được rồi.

Đang nói chuyện thì có vài người bước vào. Là đám băng đỏ. Thấy bà mẹ và cô em của Trần Hiền còn đang chảy nước mắt thì họ có vẻ hiểu chuyện. Ngàn đứng dậy tiếp họ và tiễn ra cửa. Một thanh niên còn quay lại nói chung chung.

- Khi nào anh Hiền về nhà thì nhớ nói ảnh trình diện và nộp vũ khí cho cách mạng.

Lúc trở vào nhà thì mặt Ngàn hầm hầm.

- Không ngờ thằng Sinh ở xóm sau lại là dân nằm vùng. Tụi nó đang vào nhà anh Hải. Đám này đúng là thứ trở cờ, lấy điểm.

- Nho nhỏ thôi anh ơi. Thuận rít lên. Coi chừng tụi nó nghe được là mệt lắm.

Tôi bất lực ngồi yên, lòng chua xót. Khi Ngàn, Thuận sửa soạn đi tiếp thì tôi cũng đứng dậy bước theo. Nhưng Thuận kéo tôi lại.

- Anh ở đây. Bên ngoài nguy hiểm lắm. Nhờ anh coi chừng nhà cửa dùm tụi em. Tiệm hình và cái quầy sinh tố mấy đứa trong xóm gởi cũng phải coi chừng để khỏi bị phá phách. Còn mẹ em nữa. Vi nó còn nhỏ quá, giao nhà cho nó trông chừng, tụi em không an tâm chút nào.

Tôi gật đầu rồi ngồi yên. Nhìn mẹ bạn mà nhớ tới má tôi. SàiGòn giờ này chắc là rúng động vì mất thêm một vùng chiến thuật. Cả hai thành trì ngăn cản bước tiến của làn sóng đỏ đã không còn. Một nửa miền Nam thất thủ. Số phận của Sài Gòn rồi sẽ ra sao ?!

Cả buổi chiều hai bác cháu ngồi thở vắn than dài trong khi bên ngoài vẫn tất bật một dòng người xuôi ngược. Khi mọi người trở về đông đủ thì đã mờ tối. Không có tin tức gì của Trần Hiền. Ba của bạn đã gầy yếu lại thêm căng thẳng quá độ nên vừa bước chân vào nhà thì muốn té xỉu. May là em Nam thấy kịp nên dìu ngay ông cụ vào phòng.

Không ai cho tôi đi đâu mặc dù tôi đã có dự tính trở ra khu Nguyễn Hoàng, gần Ga xe lửa, để tìm một người bạn khác. Câu chuyện quanh bàn ăn chỉ có một đề tài duy nhứt, về một người duy nhứt. Thôi thì đủ mọi lời dự đoán, mọi niềm âu lo. Mãi đến khi tôi đùa và nói biết đâu chừng Trần Hiền giờ này cũng đang ngồi ăn cơm tối với gia đình tôi ở Sài Gòn thì mới có vài nụ cười và le lói chút sinh khí trong nhà.

Đêm. Vẫn là màng tối thâm u trĩu nặng trong lòng. Mỗi người một hoàn cảnh, một tâm trạng trong cùng một dòng định mệnh. Bên ngoài đã lắng dần cơn sốt “ hồi cư ” đầy xáo trộn. Chỉ còn tiếng phóng thanh lưu động của Uỷ Ban Quân Quản gì đó kêu gọi trật tự và sinh hoạt bình thường. Còn trên đài phát thanh Đà Nẵng thì từ chiều đến giờ vẫn là những ca khúc ngợi khen công đức của lãnh tụ Hồ Chí Minh, những bài hát như lấy nhạc từ trong phim Tàu, những lời mừng công lao chiến thắng, hay những lời sắt máu đầy thù hận. Nghe mà cảm thấy ấm ức và buồn vô hạn.

Sắp tàn đêm mới hay mình vừa qua một ngày chúa nhựt, ngày đầu tiên hít thở không khí “ cách mạng “ trong những hồi hộp từng cơn. Tạm thời vẫn chưa thấy gì ghê gớm xảy ra ( hay đã xảy ra rồi, ở một nơi nào đó, làm sao biết được !? ) trong thành phố. Vài lời kinh khấn tạm trước khi trôi vào giấc ngủ chập chờn. Lịch sử vừa thay trang. Dòng đời đang đổi hướng. Rồi mai này sẽ ra sao? Câu hỏi cứ thế mà lan man trong đầu suốt đêm .

THỨ HAI 31-03-1975.
9H30. Bừng mắt dậy đã thấy miệng khô, cổ đắng và tay chân rã rời như muốn cảm.

- Ngủ thêm chút nữa đi con. Còn sớm mà. Bác gái vừa loay hoay quét nhà vừa nhìn tôi trìu mến. Tụi nó đi hết rồi. Chỉ còn ông bà già này ở nhà thôi.

Tôi nghe có chút chua xót trong câu nói nên mở lời an ủi bác. Rửa mặt xong trở lên nhà thì đã thấy có cà phê trên bàn ăn. Ba của Hiền đang ngồi đó, trầm ngâm. Tôi đến chào, rồi ngồi xuống ghế bên cạnh, nhìn bâng quơ ra đường, lòng trống rỗng, và không biết mở lời ra sao cho không khí bớt tẻ nhạt. May quá, Thuận và bé Vi cũng vừa bước vào .

- Tụi con mới đi một vòng về. Vẫn chưa có tin gì cả. Thôi, ba mẹ đừng buồn. Chắc không có chuyện gì xảy ra với anh Hiền đâu. Thuận vừa nói, vừa bóp vai người cha vẫn còn im lìm nhìn ra cửa. Bà mẹ thì chỉ lặng lẽ quay mặt vào trong bếp, chắc là để che dấu xúc động.

- Sân vận động cũng đông lắm, nghe nói có tụ tập hay mít tinh gì đó. Bé Vi góp lời.

Và cùng lúc đó như để minh xác lời của hai chị em thì bên ngoài có xe chạy ngang qua kèm theo lời phóng thanh kêu gọi giao nộp vũ khí tại sân vận động, và ổn định sinh hoạt hằng ngày về mọi mặt .

Tôi bỗng nổi máu tò mò muốn đi một vòng cho biết sự tình, vừa định lên tiếng thì đã có người đi vào với Nam.

- Tôi không biết ông ghé lại đây. Trung Sĩ Năm, ban 4 vồn vã đến chào ông cụ và tôi.
Thằng Nam nói mới biết.

Tôi hỏi thăm những người quen biết cũ thì anh Năm nói không gặp ai, ngoại trừ tôi. Theo anh thì tình hình bên ngoài tương đối khả quan mặc dù không tránh khỏi những tia nhìn dò xét của đám nón cối hay nón tai bèo mỗi khi gặp nhau.

- Không đáng sợ bằng đám ăn ké. Tụi băng đỏ mới khốn nạn. Em rể tôi mới hôm qua còn bị mấy thằng cà chớn hù cho mấy câu.

Mọi người im lặng giây lát. Sau đó anh Năm bất chợt rủ tôi đi một vòng phố Đà Nẵng .

- Ra ngoài một chút cho khuây khỏa đi. Ngồi hoài một chỗ dễ sinh bệnh lắm. Vã lại, nếu muốn thì tụi nó đã làm thịt mình hôm qua, hôm kia rồi.

Tôi gật đầu. Lần này không có ai phản đối hay tìm cách cản tôi lại.

Cùng đi với anh Năm và tôi là anh Hải, thiếu úy Địa Phương Quân, em rể của anh Năm. Cả ba chúng tôi nhắm hướng Nguyễn Hoàng, qua Cầu Vồng, và từ đó tạt vào Sân vận động. Đường phố vẫn còn đầy dẫy những quân phục, quân trang và rác rưới. Không ai buồn thu dọn. Mọi người dường như vẫn còn thụ động trong việc chấp nhận một sự thay đổi quá bất ngờ. Ngoài những nón cối, tai bèo, băng đỏ đang làm chủ đường phố, tất cả mọi thứ sinh hoạt khác đều chùng xuống với nhà cửa im lìm, lạnh lẽo đến vô hồn .

Ngôi nhà mang số 47 trên đường Nguyễn Hòang cũng vậy. Không thấy dấu hiệu có người đang sinh hoạt bên trong. Bình thường khi đứng ngay cổng là đã có người mở cửa chạy ra đón. Hôm nay thì rèm buông kín mít.

- Vào gõ cửa xem sao. Anh Hải nói. Biết đâu họ đang ở bên trong.

- Thôi khỏi. Có lẽ chưa phải lúc đâu anh. Tôi lắc đầu.

Mấy khu phố buồn thiu, nhưng càng gần sân vận động thì trên đường người qua kẻ lại càng thêm đông. Có lẽ vì tò mò, cũng có thể là ra ngoài cho có cảm giác thoải mái không chừng. Gìa, trẻ, lớn, bé, thanh niên, và cả một số phụ nữ đã bắt đầu bạo dạn hơn khi lướt qua những màu kaki Nam Định với AK và B40 còn cặp ngang hông như sẵn sàng phản ứng khi có chuyện xảy ra.

Tới sân banh thì đã thấy từng nhóm người tụ tập đó đây ngoài cổng chánh. Một vòng bộ đội ôm súng đứng dài theo bờ tường phía ngoài. Bên trong, ngay giữa sân cỏ là một bãi vũ khí cá nhân chất chồng. Có một toán lính vừa tai bèo vừa nón cối đứng thành vòng tròn tại nơi gom súng ống và một vòng đai bảo vệ khác rải dài theo đường chạy điền kinh. Họ cẩn thận cũng phải vì nếu dấu đạn trong người thì chỉ cần một chục giây đồng hồ là đủ để chộp lấy vũ khí, lắp đạn và …

Xớ rớ một hồi, chúng tôi rủ nhau ra phố chính, đảo một vòng qua Độc Lập, xuống Yên Bái định trở qua Hùng Vương rồi thả ngược về. Nhưng vừa đi ngang cổng sau nhà thờ Chánh Tòa thì tôi gặp một gương mặt quen thuộc từ góc Hùng Vương- Yên Bái đi ngược lại, trên tay cầm một gói giấy.

Nguyễn Văn Ý mừng rỡ bắt tay chúng tôi:

- Không ngờ gặp lại mày ở đây. Tao tưởng đâu Ban 4 vọt hết rồi.

Chúng tôi hỏi thăm về Đại Đội Trinh Sát của Ý thì anh bạn “ cắc kè bông “ chỉ vắn tắt kể đại khái là lúc trở về từ Quảng Tín thì sáng hôm sau là có tập họp Đại Đội nhưng sau đó thì lệnh lạc nhận được chỉ là ứng chiến tại chỗ và không có sinh hoạt gì khác.

- Tao cũng như mày. Nguyễn Văn Ý kết luận. Cũng tứ cố vô thân. Hai hôm nay lóng nhóng ngoài đường xem có gặp ai quen hay không. Đang ở ké một thằng em bạn để chờ thời. Nhà nó gần đây thôi. Mới vớt được một ít đồ nhắm. Có ai muốn theo tui về nhậu cho quên đời không!?

Thấy đứng lâu ngoài đường không tiện, tôi đề nghị mọi người đi theo anh bạn Trung Đội Trưởng Viễn Thám, nhưng anh Năm và anh Hải từ chối, nói là phải vòng trở về vì đi đã khá lâu và họ cũng không muốn ở nhà lo lắng. Tôi cũng định theo về nhưng nghĩ lại thấy mình không giúp được gì cho gia đình Trần Hiền nên quyết định theo Ý, và nhờ anh Năm nhắn lại với ba má Trần Hiền dùm tôi.

13H 30
Căn phố ba tầng có sân thượng nằm cùng dãy với nhà thờ Chánh Tòa, trong khu vực sầm uất nhứt của đường Độc Lập. Tầng trệt là ga ra xe, phía trong là phòng khách và nhà bếp kiêm phòng ăn khá rộng. Căn nhà coi như vô chủ vì người em bạn mà Ý nói chỉ là một người bà con của gia chủ từ Huế vào lánh nạn rồi quyết định ở lại thay vì theo gia đình ông cậu chạy vào phi trường tìm phương tịên vào SàiGòn từ mấy hôm trước.

- Ngày đầu thì cả nhà trở về sau một ngày mòn mỏi chờ đợi. Tiến, đứa em bạn còn đang học lớp 12 ngồi kể. Ngày 26-03 lúc em vừa tìm tới đây, chỉ vừa kể xong chuyện di tản từ Huế vào thì bạn của cậu em, một nhân viên an ninh phi trường ghé lại hối cả nhà xách túi chạy vào sân bay. Cậu bảo em đi theo nhưng vì cả nhà em bị thất lạc từ lúc em vừa rời Huế sáng ngày 25, và nơi hẹn là nhà này, nên em ở lại. Mấy hôm nay chờ hoài không thấy ai trong nhà em ghé đến. Không biết có chuyện gì xảy ra hay không mà đã một tuần nay rồi không có tin tức. Còn về phía gia đình năm người của cậu cũng vậy. Không hiểu có thoát được chưa hay là…

- Không sao đâu! Tôi ngắt lời và trấn an Tiến. Chắc tại còn lộn xộn quá. Cứ kiên nhẫn chờ tin. Còn gia đình em thì có lẽ đã tạm dừng ở đâu đó rồi kẹt luôn không chừng.

- Phải đó Tiến! Nguyễn Văn Ý phụ họa. Mấy người trong nhà này chắc cũng đi thóat lâu rồi. Nếu không thì đã phải về lại đây chứ! Từ phi trường về đây đâu có bao xa.

Đứa em bạn ngồi im lặng một lát rồi lên lầu. Chỉ còn Ý và tôi ngồi tại bàn ăn, vừa nhâm nhi lai rai vừa lắng tai nghe những tiếng động vọng lại từ ngoài đường. Chúng tôi đưa cay trong thinh lặng hồi lâu. Được một lúc thì Ý đập tay xuống bàn :

- ĐM! Thật là tức tối gì đâu! Mình bây giờ chẳng khác gì cá mắc cạn chờ chúng nó vớt lên làm thịt. Cái trò hú tim này thật là nghẹt thở quá!

Biết bạn đã ngà ngà say, tôi cố tìm cách lãng qua những câu chuyện thời còn trong quân trường hay những buồn vui lúc học Rừng Núi Sình Lầy để chàng Trinh Sát bớt căng thẳng. An ủi bạn mà cũng là tự trấn tĩnh mình để không quá tuyệt vọng. Hiện giờ có biết bao nhiêu người cùng hoàn cảnh và tâm trạng như chúng tôi? Họ đang làm gì, nghĩ gì?! Hay cũng ngồi bó gối tìm quên bằng mọi hình thức. Đồng đội, chiến hữu, thượng cấp của chúng tôi đang ở đâu? Hai hôm nay có thêm được ai vượt thóat hay không ?! Mấy chục ngàn tay súng bây giờ ra sao, đang ở đâu? Hay tất cả đã trở thành tù nhân của trại giam khổng lồ mang tên Đà Nẵng?! Tôi quay sang Ý, định hỏi xem bạn có tính toán gì cho tương lai hay không thì đã thấy chàng ta gục đầu xuống bàn thiêm thiếp ngáy. Cũng là một hình thức để tạm quên đau khổ và sự thật phũ phàng là chúng tôi đã đầu hàng số phận. Vô kế khả thi! Thật đáng buồn!

Tôi dìu bạn qua bên salon nằm tạm rồi leo lên lầu tìm Tiến và cũng để cho biết phòng ốc trong nhà. Các dãy phòng trên lầu một và lầu hai đều đóng kín cửa. Lên tận lầu ba mới gặp Tiến. Căn phòng chiếm hết một nửa chiều dài của ngôi nhà. Một nửa còn lại là sân thượng có hàng rào bao quanh. Tiến đang ngồi trầm ngâm nhìn bâng quơ qua dãy nhà lầu bên kia đường. Tiếng nhạc vang lên nhè nhẹ từ máy radio cassette đặt trên giường ngủ. Tôi đến bàn, ngồi kế Tiến. Đứa em bạn đẩy gói President qua, rồi tiện tay rót cà phê pha sẵn trong bình thủy đưa cho tôi.

- Em chạy đôn chạy đáo tìm gia đình mấy ngày nay mà không thấy ai. Tiến thở dài. Lo quá anh ạ! Xe cộ thì không có. Lớp thì hết xăng dầu, lớp bị trưng dụng, số khác thì hư hao bỏ xó nên phương tiện giao thông coi như bế tắc. Không có cách trở ra Huế được. Rầu ghê nơi. Không biết có ai bị gì sau mấy ngày cướp phá rồi đụng độ với bộ đội hay không.

- Đụng độ!? Ở đâu, lúc nào? Tôi ngạc nhiên hỏi lại Tiến.

- Đụng ngay Chợ Cồn. Sáng hôm qua. Thủy Quân Lục Chiến bắn nhau với đám băng đỏ và một số bộ đội. Tiến quả quyết trả lời.

Không tìm được xe để về Huế sáng sớm hôm qua nên em đành từ bến xe đò thả bộ theo Hùng Vương để về đây. Gần đến Chợ Cồn thì có một toán lính TQLC còn súng ống đầy đủ vượt qua em. Không biết họ từ đâu xuất hiện. Em và mọi người trên đường đều ngạc nhiên, kể cả đám người đội nón tai bèo đang xớ rớ qua lại cũng chỉ trơ mắt nhìn. Không ai nói gì với họ vì mấy ổng ngầu lắm, và im lặng đi thật nhanh, hình như họ muốn tới chỗ hẹn nào đó ở phía Bạch Đằng hay về tận Sơn Trà không chừng. Mọi người vừa qua mặt em thì bị một đám băng đỏ kéo ra bao vây, bộ đội cũng xuất hiện ngay sau đó. Tiếng lên đạn nghe lạnh mình. Ai nấy rạp mình xuống nền đường hay chui rúc vào một góc tường nào đó.

-Bỏ súng xuống! Mau lên. Một gả băng đỏ hét lớn.

Không nghe ai lên tiếng, nhưng ngay sau đó là một tràng đạn thay cho câu trả lời rồi súng nổ tá lả, người chạy rầm rập. Bắn nhau không lâu nhưng liên tục và đồng loạt. Bà con đi đường la quá xá chừng. Và tự dưng tiếng súng im bặt. Em lén lú đầu dậy coi thì thấy không còn bóng dáng lính mình đâu hết. Đám tai bèo, băng đỏ và bộ đội thì lom khom , dáo dát ghìm súng dọc theo bên này đường. Góc Ông Ích Khiêm, Hùng Vương bị chận cứng. Có lẽ họ muốn dọn dẹp chiến trường vì khi em và bà con được cho đi tiếp thì chỉ còn thấy nhiều vết máu và vết đạn lỗ chỗ trên tường nhà chung quanh khu vực đó.

Như vậy thì ít nhứt cũng đã có hai người nói về chuyện này cho tôi nghe, rất mạch lạc và sống thực. Chuyện thật, hay là những tin đồn phóng đại!? Không thể nào kiểm chứng được. Nhưng ít ra những tin tức như thế này cũng nói lên được phần nào lòng thương tưởng của người dân dành cho Lính. “ Quân từ Dân mà ra, Dân nhờ Quân mà sống “. Dân còn đây, Quân thì đã như mây khói. Càng nhớ những lời này càng thấy thấm thía cho sự tan hàng của cả Quân Khu. Và càng nghĩ lại càng thấy buồn bực nên tôi bất giác thèm đi một vòng phố để quên cảm giác tù túng đang dần dà tạo sự cùng quẩn trong đầu óc từ hai hôm qua. Khi nói ra ‎ý nghĩ này với Tiến thì đứa em bạn gật đầu.

Chúng tôi ra đường sau khi ghi vài chữ cho Nguyễn Văn Ý. Trời sắp về chiều. Phố xá vẫn mang nét gượng gạo và e dè của mấy ngày đầu đổi chủ. Xe cộ thưa thớt, toàn là xe của bộ đội, hay quân xa, nhứt là Jeep tịch thu của Quân Đội miền Nam, thỉnh thoảng có vài xe gắn máy qua lại, đa số là bộ hành. Đã không còn vẻ hớt hải, sợ sệt của hôm qua, hôm kia, nhưng nét hoang mang và lo lắng vẫn còn hằn trên nét mặt của mọi người, mọi lứa, ở khắp mọi nơi.

Hàng quán lưa thưa cũng chỉ mở cửa lấy lệ, có tính cách thăm dò hơn là vì nhu cầu kinh tế. Nhiều hơn hết là quán cà phê bình dân hay lộ thiên, nơi có vài thanh niên ngồi nhìn bâng quơ ra đường. Họ là ai, sau những gương mặt như có lớp sương mờ nhạt ấy?! Chắc chắn không phải là đám mán mới về thành. Càng không phải là đám “ quyết tử”. Vì những người này còn đang bận đóng vai trò chủ nhân hay chó săn rình rập từng khu phố, từng con đường. Chắc chắn đó là những chiến binh của một thời ngang dọc, nay đã thành những cánh chim lìa đàn, xa tổ, ngồi nhớ thuở tung mây hay mơ trời quang đãng.

Những con đường quen thuộc lần lượt nối nhau qua bước chân vô hồn của anh em chúng tôi. Những ngôi trường mới hôm nào mang đậm nét hồn nhiên của tuổi học trò, nay cũng im lìm, hoang vắng trong màu chiều dần buông. Thế giới của hoa niên thơm mùi phấn bảng cũng chịu chung số phận tai ương của thị xã. Phan Chu Trinh, Hồng Đức, những chiếc nôi nuôi dưỡng sức sống của tuổi trẻ Đà Nẵng, mới hôm nào rộn ràng với những ngày Hội Xuân thường niên nay cũng xơ xác, tiêu điều dù vẫn đang mở toang cánh cổng.

Cư Xá vãng lai Duy Tân! Khu nhà tiền chế của quân đội ở gần đó. Vườn thượng uyển của những sĩ quan tạm thời tá túc để chờ phương tiện, gác trọ khang trang của mấy chàng độc thân có nhiệm sở hành chánh trong thị trấn hay bên Quân Đoàn, đã không tránh khỏi tai họa khi được những bàn tay nhám nhúa chiếu cố tận tình. Đồ đạc vung vãi khắp nơi và lác đác đó đây vẫn còn bóng dáng của vài người thập thò khuân vác những món cần dùng còn xài được.

Hầu như nơi nào chúng tôi thả bước qua cũng đều mang một nét ảm đạm như nhau. Đường vắng, nhà hoang. Nhịp hồi sinh của Đà Nẵng chỉ mới ở mức khởi động. Tàn tích của một cơn bão loạn vẫn còn đó. Rác rưới đủ loại vung vãi ngập đường. Chưa có người thu dọn và cũng không ai buồn dòm ngó tới. Càng đi càng thấy thấm thía cho thân phận của thành phố biển trong cuộc đổi đời đầy máu và nước mắt. Những con đường lớn, nhỏ hôm nào mang nét thân thương, hoa mộng của những “ Cọp Nhí “ mới nhập cuộc nay đã là nhân chứng của lịch sử đổi đời. Độc Lập, Quang Trung, Hùng Vương, Lê Lợi, Nguyễn Thái Học, Yên Bái cùng phố xá mang kỷ niệm dễ thương của đám quai chảo từ Sài Gòn ra nhận đơn vị trong mùa Noel 1973 đang làm tôi buồn bã nhớ từng khuôn mặt của đồng đội và bạn bè đến quay quắt.

Chúng tôi hầu như không ai nói với ai một lời nào trong suốt lộ trình “ phiêu lưu “ cho biết sự tình. Cõi lòng nặng trĩu theo từng bước chân lê la qua những đường xưa lối cũ. Khi về tới “ nhà ” thì cũng vừa tắt nắng. Chúng tôi thận trọng nhìn quanh rồi mới kẻ trước, người sau lách qua cửa sắt thật nhanh. Bên trong đã tối. Tiến với tay bật đèn ngay khi bước vào, nhưng tôi cản lại, chỉ vào nhà ăn phía bên trong.

- Mở đèn ngoài này sẽ để lọt ánh sáng ra hè phố. Không nên! Trong bếp kín đáo hơn.

Tiến gật đầu. Nguyễn Văn Ý không có trong nhà ăn hay trên salon. Chúng tôi lên lầu một. và lầu hai cũng không. Thêm mấy bậc thang dẫn lên sân thượng thì nghe văng vẳng tiếng nhạc và cả giọng hát như vịt gọi bầy của “ Cắc Kè Bông “. Bước vào phòng thì thấy anh chàng đang chống cằm nhìn qua cửa sổ, vừa ngồi xoay xoay một viên bi hay một vật tròn gì đó, vừa mê mẫn nghe nhạc trong khi cửa sổ mở toang. Căn phòng chìm trong bóng tối mờ mờ.

- Mình xuống bếp là vừa. Em thấy đói bụng rồi. Tiến vừa nói vừa vỗ nhẹ vào vai của Ý rồi tiện tay khép lại cửa sổ ngay trước mặt hắn.

- Anh còn no. Ý uể oải trả lời. Ngồi đây thấy thú hơn.

- Mày có ăn gì đâu mà no chứ! Tôi ngắt lời bạn. Mớ tôm khô củ kiệu đó mà thấm tháp gì. Phải ráng nhét đầy bao tử mới được. Chỉ sợ mai này không có gì để ăn mà thôi.

- Thôi được! Ăn thì ăn. Ý xua tay, vừa đứng dậy thì có tiếng động khô khốc của một vật gì đó rớt xuống sàn. Tiến! Bật đèn lên mau. Giọng của “ Cắc Kè Bông “ nghe thảng thốt. Mau lên !

Đèn bật sáng. Anh bạn lom khom nhìn một vòng dưới gầm bàn, rồi với tay tóm một vật gì đó. Khi chàng Trinh Sát xòe tay cho xem thì Tiến tái mặt như muốn xỉu. Còn tôi lạnh gáy đứng như trời trồng. Một trái Mini! Không ngờ hắn còn giữ của nợ này trong người.

- Mày làm ơn quăng nó đi có được không!? Tôi nhăn nhó đẩy bạn bước xuống lầu. Tao không muốn chết một cách lãng xẹt. Mày còn giữ nó làm chi vậy?

- Làm kỷ niệm. Hắn tỉnh bơ trả lời. Qùa tặng của bạn cùng khóa với anh thằng Tiến sau một chầu nhậu ở Đại Lộc. Mày đừng lo. Tao không chơi dại đâu. Nhưng cũng có lúc phải cần tới nó không chừng.

Chúng tôi ngồi nhìn nhau dưới bếp còn Tiến thì đang loay hoay nấu nước pha mì gói. Nhanh và gọn.

- Nhờ đi với anh một vòng nên mới thấy đói. Tiến vừa nói với tôi, vừa mở tủ lạnh tìm món gì đó.

Đến lúc này tôi mới nhận ra là trong suốt những ngày đen tối nhứt của Đà Nẵng cho đến hôm nay, đã không có đến một lần cúp điện hay thiếu nước. Điều này chứng tỏ những người có trách nhiệm của Công Ty Điện Lực và Thủy Cục chắc chắn đã không rời bỏ nhiệm sở hay xao lãng bổn phận cho dù thành phố đã lên cơn sốt di tản trong tuần qua và đang trong tình trạng phập phồng hay rối bời như hiện nay.

- Không thể như thế này mãi được. “ Cắc kè bông “ thở dài, lẩm bẩm. Kiểu này chắc tao điên mất.

- Thì cứ bình tĩnh cái đã. Tôi thả từng chữ để che dấu sự rã rời của chính mình. Nóng mũi như mày cũng chẳng ích lợi gì. Muốn gì thì mày cứ nói thử xem sao.

- Tao đang rối trí đây. Có nghĩ quái gì được chứ.

- Vậy thì ăn chút gì đi. Phải ăn để cho có sức rồi tính gì thì tính.

Tuy nói vậy nhưng tôi cũng chỉ nuốt được đúng một chén mì gói rồi buông đủa qua ngồi bên salon đốt thuốc. Ăn không ngon, nuốt không trôi, mặc dù gia chủ đã nấu sẵn nhiều thứ để trong tủ lạnh, và gạo cùng những gia dụng khác thì có lẽ cả tháng xài cũng chưa hết. Mọi thứ trong nhà bếp vẫn ngăn nắp, chứng tỏ mấy hôm nay bạn và Tiến hầu như không đụng gì tới cơm nước.

Rồi cũng xong bữa ăn. Tiến lên sân thượng. Cậu em bạn hình như chỉ thích một mình, một cõi. Ý ngồi thừ người tại bàn ăn. Còn tôi nằm tư lự thả khói. Buồn bã. Không biết giờ phút này gia đình ra sao. Chắc là lo lắng ghê lắm. Mọi liên lạc đều hoàn toàn bị cắt đứt. Đà Nẵng bây giờ đang nằm sau bức màn sắt và hoàn toàn cô lập với thế giới bên ngoài mặc dù tai mắt của các hãng thông tấn chắc chắn vẫn còn lẩn quẩn đâu đó trong thị xã. Dù sao cũng là thành phố quan trọng đứng hàng thứ nhì của toàn miền Nam. Nhưng phương tiện truyền thông không còn khả dụng, lấy gì đưa tin đi và nhận tin trở lại!?

- Mày có đự tính gì không Huy? Không lẽ nằm đây chờ chết!?

Câu hỏi của bạn lôi tôi ra khỏi vùng suy tưởng. Ngay bây giờ đầu óc tôi trống rỗng. Mấy hôm nay lòng trống vắng và chân bước như đang mộng du. Không có chủ đích hay mục tiên nhứt định. Đi để không bị ngột ngạt trong bốn bức tường. Đi để nhìn người rồi tự an ủi là không phải chỉ có mình là bất hạnh phải chào thua định mệnh. Tuy vậy tôi cũng cố gắng tìm một câu trả lời, cho dù không đúng hẳn với lòng mình đang suy nghĩ.

- Tao định sẽ tìm xe để vọt về phía nam. Gần SàiGòn được chút nào hay chút đó.

- Xe?! Xe gì mới được. Ý hậm hực trong kẽ răng. Tụi nó tịch thu hết cả rồi. Một chiếc xe
đò cũng không có. Mà đi được tới đâu chứ!?

- Còn xe hàng, xe tải. Từ từ mà kiếm. Tôi cũng hết cách nên nói cho có lệ.

- Mẹ kiếp! Chỉ sợ mày bị chúng nó làm thịt trước khi có cách mà thôi.

Tôi không biết phải đối đáp ra sao, vì bạn nói rất đúng. Còn đang nghĩ ngợi thì Tiến chạy xuống, trên tay cầm chiếc radio cassette:

- Có tin của BBC !

Chúng tôi gom lại quanh bàn kiếng salon. Phần phát thanh bị nhiễu sóng, đôi khi có tiếng rè rè thật khó nghe, nhưng điểm chính của bản tin thì thật rõ ràng: “ … Cho đến hôm nay, một số thương thuyền vẫn còn lảng vảng ngoài khơi Đà Nẵng để chờ vớt những người dùng ghe, tàu vượt thoát …Thành Phố Qui Nhơn thuộc tỉnh Bình Định đã mất vào tay Cộng Sản…Đụng độ quyết liệt giữa Nhảy Dù và quân chính quy Bắc Việt tại đèo Khánh Dương, Quốc Lộ 21… ”

- Tới phiên Qui Nhơn rồi! Ý thở dài. Còn Khánh Dương thì cách Dục Mỹ không xa. ĐM! Tụi nó chuyển quân cách nào mà nhanh quá vậy!?

Tôi ngồi im lặng, thầm chua xót. Cách duy nhứt chỉ là cố gắng ra biển, với hy vọng địch không kịp pháo chận hay không có phương tiện rượt đuổi. Đường bộ thì bó tay. Và cũng không có lối về miền đất tự do ở phía nam vì vùng Một và cao nguyên đã hoàn toàn nằm trong tay Cộng Sản. Không lẽ Việt Nam Cộng Hòa trong tương lai chỉ còn bãi cát của miền duyên hải trung phần và hai vùng chiến thuật còn lại?!

- Ngày mai em sẽ tìm cách về Huế. Chỉ cần tìm được bất cứ xe nào chạy về hướng bắc là xong. Em hết kiên nhẫn rồi. Tiến vừa nói vừa uể oải nằm dài trên salon đốt thuốc. Em vừa lo cho mẹ vừa nghĩ tới anh Thành. Chắc chắn anh ấy giờ này đang cùng hành quân với đơn vị. Chỉ có mẹ và chị em thì không biết ra sau…

- Sáng mai tao với mày qua Thanh Bình xem tình hình ra sao. Ý nói với tôi. Biết đâu trời thương tụi mình.

- Được! Tôi vừa dụi tàn thuốc vừa trả lời. Tao đi với mày. Nhưng bây giờ phải tắm cái đã. Tiến chịu khó vào các phòng tìm khăn và xem coi có quần áo nào bỏ lại thì cho anh xin một bộ. Bộ đồ này đem làm mắm được rồi đó.

- Dạ. Anh theo em. Thú thật là em chưa lục lạo gì trong mấy phòng dưới này. Em chỉ thích sân thượng thôi. Trước đây căn phòng trên đó là giang sơn của đứa em họ. Hình như trong tủ của nó còn khá nhiều bộ quần áo. Anh cứ tự nhiên lấy mặc.

Tôi vừa tắm rửa và thay quần áo xong thì nghe tiếng gọi cửa dồn dập của chàng “ Cắc Kè Bông “.

- Qua phòng kế bên ngay. Mau lên. Mày cần phải xem cái này mới được.

Chúng tôi bước vào căn phòng ngủ sang trọng, có lẽ là của vợ chồng gia chủ. Tiến đang ngồi sẵn trên giường, bên cạnh là một túi xách Pan Am đựng mớ vật dụng cần thiết của phụ nữ và xen kẽ, lẫn lộn trong đó là…Tiền! Toàn là giấy 500 và 1000!

- Có lẽ vì gấp quá nên mợ em quên. Tiến chìa cho tôi xem một xấp bạc rời. Chỉ tay vào bàn trang điểm kề bên, Tiến nói tiếp. Trong hộc tủ còn một lô hộp quẹt và mấy hộp manchette của cậu. Mấy anh cần hay thích gì cứ lấy dùng. Em nghĩ là nếu có trở về đây thì cậu mợ sẽ không thắc mắc chi đâu.

- Bây giờ em là chủ căn nhà này. Chỉ cái nào anh sẽ chộp cái đó ngay. Ý nhà ta nói vậy, nhưng cũng đã nhanh tay quơ lấy một cái Zippo Mini thật xinh xắn.

Tôi đưa mắt nhìn quanh, trong lòng thật sự không thấy cần gì. Lương tháng 3 vẫn chưa xài hết. Trong hoàn cảnh này khi không biết ngày nào tiền của Việt Nam Cộng Hòa sẽ không còn giá trị lưu hành. Sớm muộn gì cũng sẽ thành giấy lộn mà thôi.

- Tụi mình coi như là vô gia cư. Tôi nói thật ‎những gì đang đè nặng trong lòng. Trước sau gì cũng phải rời khỏi đây vì không biết mình sẽ yên thân được bao lâu nữa. Việc đầu tiên là tránh mặt đám nằm vùng được ngày nào hay ngày đó. Kế tiếp là tìm cách thoát khỏi Đà Nẵng nếu được. Bằng không thì ai sao mình vậy. Ngày mai nếu Tiến cần phải về Huế thì nên mang tiền theo. Anh chưa cần.

- Theo tao thì mình cứ “ mượn đỡ “ một ít tiền. Biết đâu trời thương cho mình tìm được xe cộ hay tàu bè thì sao!?

Tôi và Tiến cùng bật cười sau câu nói của Ý. Một nụ cười thật hiếm hoi, và cũng là thoáng an ủi để những đứa “ Con Bà Phước “ nhẹ lòng thao thức qua đêm.

THỨ BA 01-04-1975.

“ Em xin phép đi trước hai anh. Nếu không về được Huế thì em sẽ quay trở lại. Em có ghi vài chữ, phòng khi gia đình của cậu em trở về. Nhưng em nghĩ là cậu mợ đã đi thoát rồi. Các anh cứ tự nhiên trông nhà dùm em. Chúc mọi sự may mắn. “

Bức thư đặt trên túi Pan Am để ngay cạnh chỗ nằm của chúng tôi. Ý và tôi nhìn nhau im lặng. Bây giờ đã gần 9 giờ sáng. Không biết đứa em bạn đã đi đến đâu. Vài lời thầm chúc cho Tiến và gia đình được bình an. Vài lời bàn tính cho những gì cần làm cho cả ngày. Mở hé cửa, gài sẵn khóa. Đảo một vòng quan sát tình hình. Bên ngoài đã có người qua lại khá đông. Mọi thứ có vẻ bình thường mặc dù nón cối và dép râu có mặt khắp nơi.

- Sẵn sàng chưa!?

- Rồi. Mình vọt đi!

Lách mình. Đóng cửa. Không cần nhìn lại cũng biết Nguyễn Văn Ý chỉ cần đúng hai giây đồng hồ. Lại thêm một ngày nắng tốt. Ấm áp. Sinh hoạt trên phố phường đã có vẻ kha khá hơn một chút. Đã có vài cửa hàng dịch vụ và quán ăn mở cửa trở lại. Các khu chợ và thương mãi cũng dần dà bắt lại nhịp cũ. Có điều đáng ngạc nhiên là có những món hàng trước đây thuộc loại xa xí phẩm thì nay lại được giới nón cối chú trọng triệt để: radio bán dẫn, đồng hồ đeo tay và …viết máy.

Chúng tôi ngồi ở một quán Tàu trên Hùng Vương, gần chợ Cồn, ăn chút gì cho chắc bụng, và cũng để dò xem có ai nói hay kể gì về câu chuyện chạm súng hai hôm trước hay không. Nhưng ai nấy đều tư lự nhìn ra đường. Nếu có trao đổi gì đó thì những câu chuyện đều chỉ vừa đủ nghe tại bàn. Trật tự bên ngoài tưởng như đã được vãn hồi phần nào nhưng cũng chỉ ở mức thăm dò rất gượng gạo vì lòng người vẫn còn nhiều chao đảo.

- Thôi mình đi! Trưa rồi đó. Ý đứng dậy trước.

Chúng tôi hòa vào dòng người, theo Ông Ích Khiêm thả dài về bãi Thanh Bình. Đường rộng, phố đông, nhưng đa số nhà cửa vẫn im lìm kín mít. Các ngã tư Quang Trung, Nguyễn Hoàng, Trần Cao Vân đều có từng nhóm nón cối tụ tập, hoặc để giữ an ninh trật tự, hoặc đưa mắt cú vọ nhìn theo mọi người đang qua lại.

Bãi biển Thanh Bình! Một thời là nơi hò hẹn của trai thanh gái lịch thời đệ nhứt Cộng Hòa, thắng cảnh bị lãng quên trong thời kỳ leo thang chiến cuộc, đã trở thành một bãi rác khổng lồ với đủ mọi thứ trên đời nằm vung vải xuống tận mé nước. Từ vali, áo quần, giày dép, túi xách, bao nylon, thùng gỗ, thùng phuy, thùng sắt, ván gỗ, thúng chèo sút càng gãy gọng, cho tới võ ruột bánh xe và những thứ lềnh bềnh trên mặt nước không thể nhận dạng được. Chúng tôi ngao ngán lẩn quẩn một hồi lâu. Cùng loay hoay đây đó trên “ bãi rác “ còn có một số người chắc là cũng ra đây cầu may một cơ hội hay tìm lại những thứ đã vứt bỏ trong lúc hoảng hốt trước đây. Mọi người đều im lặng. Một thứ im lặng của nhẫn nhục và chịu đựng.

- Vào thử Tam Tòa ra sau. Ý bất chợt nói thật nhỏ, vừa đủ cho tôi nghe. Khu đó của nhà thờ. May ra còn chút hy vọng. Đi theo tao.

Tôi lưỡng lự nhìn về phía Tam Tòa rồi gật đầu. Khi trở lên thì có một toán lính đội nón tai bèo, mang dép râu cỡ chừng một tiểu đội, súng cặp ngang hông, đang chậm rãi bước lần xuống mé bãi. Có lẽ là một toán tuần tiểu đang thi hành nhiệm vụ. Chúng tôi và một vài người khác nép vào bên đường, nhường lối cho họ đi qua và tránh nhìn những ánh mắt dò xét đang soi mói quét ngang, lướt dọc.

Liếc qua “ Cắc Kè Bông “ thì thấy hắn dơ tay lột nón, làm bộ lau mồ hôi để không nhìn đám du kích hay dân quân địa phương đó. Nhưng nhìn kỹ lại mới biết trong tay cầm nón là quả Mini nằm thật gọn trong tư thế sẵn sàng rút chốt. May quá! Không có chuyện gì xảy ra. Tôi hồi hộp nín thở chờ cho toán tuần tiểu đi hẳn rồi mới nhích qua bạn.

- Sao mày mang theo của nợ này làm chi vậy? Mà giấu nó ở đâu. Sao tao không thấy?!

- Trên đầu. Ý vừa bước theo tôi vừa trả lời tỉnh bơ.

Không biết nói thật hay đùa, nhưng từ lúc đó trở đi, vài ba phút là tôi liếc nhìn chiếc nón trên đầu hắn, cứ sợ mang họa vì trái Mini rớt ra bất chợt. Đường vào Tam Tòa đi ngang nhà Trần Hiền, nên tôi rủ Ý ghé vào một lát, đủ để thăm cả nhà đang sửa soạn ăn trưa và hỏi han về tin tức của người bạn học thời sinh viên. Trần Hiền vẫn bặt tin. Mọi người muốn giữ lại nhưng chúng tôi nói cần phải đi ngay và hẹn sẽ ghé lại trên đường về. Khi chào Bác trai để đi tiếp thì ông cụ tiễn ra cửa kèm theo một câu dặn dò chí tình.

- Cần gì phải vào Tam Tòa. Con hẽm kế bên nhà cũng dẫn ngay xuống biển. Nhưng chắc là không khả quan vì bác nghe nói còn lộn xộn lắm. Nhớ đừng làm chuyện bốc đồng nghe mấy cháu. Làm gì cũng nên cẩn thận là hơn.

Tôi dạ rồi kéo Ý đi ngay để che dấu niềm xúc động. Cả nhà xem tôi như một người thân, nếu không muốn nói là như một Trần Hiền thứ nhì trong gia đình. Nghe bác trai nói cũng không sai vì Tam Tòa cũng không còn bao xa nên vừa ra khỏi nhà Trần Hiền một đoạn, chúng tôi chọn đại một con hẽm bên phải đường để quẹo ra hướng biển.

Đường nhỏ, nhưng đủ rộng để xe gắn máy và bộ hành lách nhau. Nhà cửa san sát, nhưng người qua kẻ lại không nhiều, có lẽ vì đã giữa trưa. Vài ánh mắt có vẻ ngạc nhiên khi nhìn chúng tôi, nhưng không ai nói gì, hỏi gì. Đi được một đoạn thì Ý kè sát bên tôi nói nhỏ, trong khi mắt vẫn nhìn về phía trước.

- Có mấy đứa lãng vãng theo mình từ lúc rẽ vào đây. Mày có biết không?!

- Biết. Tôi khẽ đáp. Nhưng không phải nón cối. Chắc là dân công giáo.

- Tao chỉ lo ngại đám “ quyết tử “ thôi. Xui xẻo gặp tụi nó thì phí “ trái nho “ này lắm.

- Thôi đi cha nội. Tôi gắt khẻ. Giữ mạng mày lại dùm tao. Từ từ dò xét cái đã.

Nói xong là tôi quyết định dừng lại. Nhóm người chừng bốn thanh niên ở phía sau vẫn tiếp tục tiến đến phía chúng tôi. Họ không có vũ khí trên tay, và điều này làm cho tôi cảm thấy an tâm hơn. Khi còn cách mấy bước thì một người có vẻ là đàn anh xẳng giọng hỏi:

- Mấy người đang tìm ai !?

Tôi biết chắc chắn Nguyễn Văn Ý sắp sửa gào lên một tiếng chưởi thề vì chính tôi cũng đang thấy nóng mặt khi nghe anh ta hỏi một cách xấc xược như vậy. Nhưng rồi có tiếng reo vui của người đứng bên cạnh anh ta:

- Ủa! “ Cắc Kè Bông “ ! Anh Ba. Tui biết ông này!

Anh bạn tôi thò lõ hai mắt nhìn người mới giải tỏa sự căng thẳng:

- Anh bạn chắc là …

- Phú. Trong toán Viễn Thám của thiếu úy Thành. Ông không nhớ tui đâu, nhưng cả Đại Đội Trinh Sát ai lại không biết “ Yên Bái “ chứ.

Người đàn ông khi nãy tươi nét mặt, nói lời xin lỗi rồi hối chúng tôi tìm một nơi vắng để tiếp tục câu chuyện. Và vài phút sau là chúng tôi yên ổn ngồi trong một căn nhà nằm sâu trong xóm đạo, nhà của Phú.

- Ở trong này tha hồ nói chuyện với nhau. Tụi nó lâu lâu mới lạng qua một vòng để hù bà con thôi. Anh bạn tên Phú vừa nói vừa rót nước mời chúng tôi.

Sau khi nghe bạn tôi nói rõ mục đích thì Phú chỉ tay vào người bạn của anh ta, thở dài:

- Thằng Thanh ròm này súy‎t chút nữa đã bị đám bộ đội tuần duyên bắn bể gáo hôm Chúa Nhựt. May là bơi giỏi nên kịp bỏ thúng bơi trở vô. Dân Tam Tòa này đi cũng nhiều nhưng số kẹt lại thì đông hơn. Ngay khi đang lộn xộn và có tin đồn tàu Mỹ vớt dân chúng ngoài biển cho tới ngày 30-03 thì còn cơ hội, qua hôm sau thì ghe tàu đã không còn. Chỉ vì chần chờ và chậm chân. Khi tụi này quyết định vọt thì chỉ còn vỏ ruột xe và thúng. Đành chịu thua chúng nó thôi!

Phú cho biết thêm là đám bộ đội kiểm tra và canh phòng rất gắt gao khu vực bờ biển, cả ngày lẫn đêm. Những ai lãng vãng ngoài đó dù lấy cớ trở lại tìm đồ đạc hay thân nhân thất lạc, cũng đều bị đuổi về thẳng thừng. Khu vực phía bắc, cuối đường Trần Cao Vân, lên tận Hà Khê, Hà Đông đều như bãi chiến với không biết bao nhiêu thứ đồ vật bị vứt bỏ trên đường và ngoài bãi bỉển.

- Nếu hai ông muốn vượt biển thì chắc là phải ra ngoài Hòa Khánh hay tận Nam Ô thì họa may mới còn ghe lớn. Nhưng nghe nói tụi nó còn canh chừng gắt gao hơn ở đây nữa.

Nghe nói đến Hòa Khánh thì Ý và tôi nhìn nhau. Hậu cứ Liên Đòan 12BĐQ của chúng tôi ở gần ngay đó. Nhưng làng chài Phú Lộc không có tàu lớn, chỉ toàn là ghe cận duyên. Vậy thì phải ra tận Nam Ô, hay ngược xuống Hội An mới có nhiều hy vọng. Bạn tôi nhờ Phú tìm dùm xe ôm. Phú nói không dám hứa chắc cho dù “ Cắc Kè Bông “ rao giá bao nhiêu cũng được. Sau một hồi bàn bạc với Thanh thì Phú nhận lời tìm mượn xe để chở chúng tôi đi. Giờ giấc và điểm hẹn là ngả tư Trần Cao Vân, Ông Ích Khiêm. Đúng 3 giờ chiều. Có xe hay không thì Phú cũng sẽ đến chỗ hẹn để cho biết.

Chúng tôi thả bộ về tận Cầu Vồng mới tìm được một quán ăn bình dân. Câu chuyện nghe được từ bàn bên cạnh làm tôi nản lòng. Nhóm thanh niên ba người đàn ông và một phụ nữ, không biết thuộc thành phần nào, nhưng chắc là cùng xóm, hay quen biết với chủ quán đã kể cho nhau nghe về chuyện mới hôm qua có một số quân nhân bị bộ đội cộng sản chận bắt khi đang trên đường từ Non Nước hướng về Hội An. Vài người bị hành quyết tại chỗ, đa số thì được thả.

- Tao dám chắc đó là Thủy Quân Lục Chiến. Một người nói.

- Tao cũng nghĩ như vậy. Người khác phụ họa. Có thể là nhóm lính đã đụng độ với bộ đội ở Chợ Cồn. Tụi nó tức mình nên bắn mấy người chỉ huy không chừng. …Mẹ nó! Trả thù kiểu này hèn quá!

- Suỵt! Nói nhỏ một chút đi! Bộ muốn tụi nó tóm cổ hả?! Người phụ nữ vừa nói vừa chỉ tay ra đường.

Lại một đám nón cối đang đi ngang qua, nhưng ngoài một vài người mang AK thì số còn lại đeo cặp da nhỏ gọn, viết cài trên túi áo và trên tay thì xách máy radio transistor mà họ gọi là cái “ đài “. Họ vừa đi vừa nói chuyện, chỉ trỏ qua lại, thái độ giống như những kẻ nhàn lãm mặc dù vài ánh mắt dò xét đã không quên đảo một vòng vào quán.

Trên đường trở về chỗ hẹn với Phú, tôi đột nhiên không còn hứng thú về chuyện tìm ghe ra biển. Muộn rồi. Biết bao người vùi thây trong những ngày đầu trốn chạy. Và không biết bao nhiêu người khác cũng đã và đang hoài công, phí của trong mấy hôm nay. Ban ngày còn dễ hòa lẫn vào đám đông. Ban đêm là thế giới của những đôi mắt cáo. Phương tiện không có. Quyền lực nằm trong tay họ. Có chạy đôn chạy đáo thì cũng chỉ tay không trở về và tinh thần càng thêm tổn thương.

Khi tôi nói với Ý về những suy nghĩ đó thì bạn gạt phăng:

- Biệt Động Quân gì mà yếu xìu vậy!? Mình không thử thời vận thì làm sao biết có làm được hay không. Mới đây còn hăng lắm. Sao bây giờ …A! Hay là sợ bị tụi nó thọc huyết như lời đám người đó nói?! ĐM! Tao không tin đâu. Chưa biết chừng là đám cò mồi đấy. Mày lạng quạng xía vào là tụi nó vớt đẹp ngay.

Thấy tôi im lặng, “ Cắc Kè Bông “ vỗ vào túi quần, dịu giọng nói tiếp:

- Tao có “ mượn đỡ “ một xấp của cậu mợ thằng Tiến. Mình có tiền. Xài phí thì uổng. Lo cho vụ này là phải đạo thôi.

Tôi vẫn im lặng cho tới khi về đến Trần Cao Vân. Chờ không bao lâu thì Phú đến một mình trên chiếc Honda SS67. Ba người tụ lại không tiện. Nhứt là nơi ngả tư đông dân. Nên tôi lãng đi chỗ khác. Hai thầy trò Trinh Sát bàn tính gì đó thật nhanh rồi Phú vọt đi. Một thoáng sau Ý đến ngang tôi, vừa đi vừa nói.

- Thằng Phú không mượn được xe ai khác ngoài chiếc của anh rể nó. Muốn đi thì một trong hai đứa mình thôi. Nó không dám chở ba vì sợ bị chú ‎y’. Tao cho mày quyết định. Mau lên. Nó đang chờ kìa!

- Đúng nghề của mày thì mày nên đi mới phải. Tao chờ ở dãy cà phê Diên Hồng, góc Ty Thông Tin, cho dễ tìm nhau. Đưa chìa khóa đây. Tới 7 giờ tối mà không thấy mày thì tao về “ nhà “ trước.

- Nhận rõ! Nói xong là anh chàng nhảy lên xe, vỗ vai Phú ra hiệu cho xe chạy.

Tôi phân vân không biết làm gì cho qua buổi chiều. Định quay lại nhà Trần Hiền thì chợt nghĩ tới người bạn trên đường Nguyễn Hoàng nên tôi đổi hướng đi về phía Cầu Vồng. Căn nhà số 47 vẫn im lìm tắm nắng. Đang lưỡng lự trước cổng thì có tiếng gọi tên tôi và Võ Đại Quảng bước ra thật nhanh, trước khi tôi dợm bước đi. Anh bạn khóa 5/72B Đồng Đế hốc hác thấy rõ. Bạn cho biết có thấy tôi xớ rớ trước cổng ngày hôm qua, nhưng ngại đông người nên không mở cửa. Quảng hỏi thăm tình hình các nơi và nói thật là chỉ mới dám bước chân ra khỏi nhà hồi sáng nay thôi.

- Anh rể tao gốc di cư nên càng sợ chúng nó tóm. Quảng thở dài. Mấy hôm nay chị Nhạn và nhỏ em út gồng hết mọi chuyện. Mãi đến sáng nay anh Dũng và tao mới ló mặt ra ngoài một chút để tìm mua thuốc lá.

Sau đó chúng tôi ngồi kể cho nhau nghe những gì xảy ra trong những ngày đen tối đã qua. Khi nghe tôi nói đang cố tìm ghe hay phương tiện nào đó để vọt ra khơi thì Quảng lắc đầu ngao ngán.

- Hết cách rồi! Làm gì còn ghe mà kiếm với tìm! Mấy ông không có hy vọng gì đâu. Cải trang làm thường dân, bám xe hàng thì họa may. Nhưng tao sợ đám lấy điểm cũng như tụi nằm vùng sẽ phát giác ra dễ dàng vì tụi nó cũng sống như mình nên biết hết mọi thứ trên đời. Đám chó săn này mới thật sự nguy hiểm. Chứ còn bọn nhóc con từ ngoài bắc mới vào thì biết quái gì.

Tôi ngồi im lặng gật đầu. Rủ Quảng đi một vòng thì bạn lắc đầu, nói là đang coi nhà cho bà chị và ông anh rể chạy đi tìm mua gạo và thực phẩm khô. Bạn muốn giữ tôi ở lại nhưng tôi từ chối và hẹn sáng ngày mai sẽ cùng trở lại với Ý để những người đồng cảnh ngộ có dịp quen biết nhau. Chúng tôi chia tay trong thinh lặng. Cái siết tay đã nói thay lời.

19H00- Tôi đảo mấy vòng quanh khu vực Ty Thông Tin và xinê Trưng Vương sau khi ngồi nhâm nhi cà phê cả giờ đồng hồ trước đó. Tiếng loa phát thanh buổi chiều cũng vừa lên giọng lãi nhãi những tin tức đầy tính cách tuyên truyền thật nhàm chán, xen kẽ với những bài hát sặc mùi cộng sản hay nâng bi lãnh tụ. Đã mấy vòng quanh Trưng Vương mà vẫn chưa thấy tăm hơi “ Cắc Kè Bông “ đâu cả. Về “ nhà “ một mình thì không chịu nổi sự thênh thang của ba tầng lầu, nên tôi thả dài về phía nhà thờ chánh tòa. Đứng bên kia đường, nguyện vài câu kinh, nhìn cửa đóng im lìm mà thêm buồn vì cảnh lạnh vắng của giáo đường.

Đang thầm lo và sốt ruột vì Ý thì chợt thấy hắn chậm rãi bước về phía tôi. Tôi băng qua đường lúc chỉ lác đác vài người qua lại trước “ nhà “, và mở khóa cửa rồi lách vào thật nhanh. Cửa khép hờ không bao lâu thì “ Cắc Kè Bông “ cũng luồn vào và đóng cửa lại hầu như chỉ cùng một động tác.

Chúng tôi ra sau bếp mới bật đèn. Chưa kịp hỏi thì bạn đã nhoài người rơi xuống salon. Sau một tiếng chưởi thề thật ngọt, bạn kể:

- Mày nói đúng! Chỉ hoài công vô ích mà thôi. Khu vực Nam Ô cũng không khác gì nơi này. Chỉ là một bãi hoang tàn không hơn không kém. Ai nấy vẫn còn đang chộn rộn vì chuyện chạy đi rồi chạy về. Còn dưới bãi, trên bờ thì toàn là nón cối. Đi tới đâu cũng bị những cặp mắt dò xét, e dè, nghi ngại đủ thứ. Tính ra Liên Chiểu nhưng tao nản lòng quá. Nam Ô rộng lớn như vậy mà còn không có chút đầu mối huống chi làng Liên Chiểu nhỏ xíu. Làm gì có tàu bè mà hòng dọ hỏi. Nhưng có chạy một vòng như thế mới hay là hình như tất cả xe đò đều bị tụi nó trưng dụng để chở nón cối. Không thấy chiếc nào đón hành khách cả. Còn xe hàng, xe tải thì cũng chạy lai rai trên quốc lộ. Theo tao thì đường bộ dễ thóat hơn. Nhưng không biết ra khỏi tỉnh thì thế nào. Bận về có ghé qua Phú Lộc. Nhìn không ra hậu cứ của mình nữa. Mới mấy ngày mà vắng vẻ gì đâu. Khu gia binh trống trơn còn dãy nhà của Liên Đoàn thì đầy nón cối. Chán quá chừng! Mình đúng là thú nằm trong rọ rồi!

Bạn vừa kể xong thì bên ngoài có tiếng phóng thanh di động kêu gọi Sĩ Quan Quân Đội Sài Gòn 8 giờ sáng ngày mai đến Quận Nhứt trình diện với “ Uỷ Ban Quân Quản thành phố Đà Nẵng “. Chúng tôi nhìn nhau lo lắng. Họ muốn gì đây!? Chiếc xe đảo qua đảo lại cả buổi tối để phát lời kêu gọi trình diện làm chúng tôi rầu rĩ bỏ cả cơm tối. Đã vậy, nguồn tin nghe được từ BBC lại mang đầy tính chất bi quan khi họ loan báo chiến trường đã về tới Dục Mỹ, và Nha Trang đang có nguy cơ bị bao vây. Còn chánh phủ thì đang rối rắm trong việc tái phối trí Quân Đội cho phù hợp với tình tình chiến sự.

Có nghĩa là SàiGòn chấp nhận bỏ hai vùng Chiến Thuật và những ai ở vào hoàn cảnh như chúng tôi đã trở thành tù nhân bị giam lỏng và số phận thì tùy thuộc vào sự quyết định của những kẻ chiến thắng và cũng là những con vẹt khoác lác có vũ khí trên tay. Đêm buồn nên dài như vô tận. Cách lãng quên đời hữu hiệu nhứt vẫn là men cay và khói thuốc. Tới đâu hay tới đó. Biết sao hơn bây giờ!

THỨ TƯ 02-04-1975. 8H00
Gần sáng mới chợp mắt được một chút. Thức dậy sớm là nhờ loa phát thanh buổi sáng của khu phố và tiếng xe phát thanh lưu động nhắc lại lời kêu gọi trình diện. Mì gói cho chắc bụng, cà phê thuốc lá cho tỉnh táo là vọt ngay đến nơi tập trung.

Đúng giờ nhưng lại trễ vì đã có rất nhiều người có mặt ngòai cổng của Ty Cảnh Sát Quận Nhứt từ lúc nào không biết. Lại một thoáng bùi ngùi khi nhìn những gương mặt xanh xao đang cố gượng cười để chào đón nhau. Mọi người ngồi xổm dưới đất, che kín cổng ra vào và lề đường. Từng đợt người tự giác sắp xếp theo thứ tự trước sau, không cần đến sự chỉ dẫn hay ra lệnh của những chiếc nón tai bèo đang giữ an ninh trật tự chung quanh và ngay trước cổng. Chúng tôi lóng ngóng tìm những sĩ quan của Liên Đoàn nhưng không thấy, hay không thể nhận ra ai trong những bộ đồ dân sự đang ngồi la liệt dưới đất. Đã quá quen mắt với bộ quân phục nên tôi không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn những mái tóc ba phân của lính trong bộ quần áo thường dân. Đông quá! Không thể nhận ra ai từ phía sau lưng và từ một khoảng cách cũng khá xa. Đành ngồi tại chổ rồi nhích dần về phía trước.

- Đồng chí ơi! Cho vào nhiều hơn nữa được không. Chờ lâu ngoài nắng cực khổ quá!

Một người, có lẽ muốn pha trò để phá tan không khí nặng nề, đã lên tiếng hỏi một nữ du kích hay dân quân gì đó đang ôm AK đứng làm nhiệm vụ đóng và mở cổng cho từng đợt người vào. Người đàn bà trẻ, rất trẻ, đã không bỏ lỡ cơ hội quắt mắt và xẳng giọng “ lên lớp “ anh ta cùng mọi người.

- Ai là đồng chí của mấy anh!? Đừng hòng nằm mơ! Mấy chục năm nữa cũng không ai xứng đáng là đồng chí với cách mạng đâu.

Ai nấy im lặng gầm mặt xuống. Lời cợt đùa không đúng chỗ, chẳng đúng lúc của anh bạn đã tạo cơ hội cho cô “ khăn rằn “ hằn học nhắc tới vị thế của người Lính miền Nam trong hoàn cảnh mới. Nhìn quanh mà thấy tủi nhục cho mấy “ quan “ lớn, nhỏ. Mới đó mà đã xuống tận cùng bằng số của đời lính bại trận bất đắc dĩ và đang phải ngoan ngoãn nhích từng tấc đất để tiến dần tới cổng sắt.

Rồi cũng đến lượt Nguyễn Văn Ý và tôi được cho vào. Căn phòng rộng, kê nhiều bàn giấy. Tại mỗi bàn có một cán bộ ngồi hỏi và ghi chép. Tôi được đưa tới gặp một người đã đứng tuổi, đầu trần, nón cối để trên bàn, cạnh đó là một gói thuốc lá và hộp quẹt loại giựt nắp ra rồi đậy trở lại. Ông ta rút một tờ giấy, đặt lên cuốn sổ rồi mới chằm chằm nhìn tôi ra câu hỏi. Thủ tục “ hỏi cung “ ngắn gọn và đơn giản. Chỉ xoay quanh chi tiết cá nhân, đặc biệt là cấp bậc và chức vụ tại đon vị sau cùng. Hơn hai giờ dang nắng chờ đợi nhưng chỉ chừng mười lăm, hai mươi phút thẩm vấn là xong.

Tôi đứng ngay cổng sau chờ “ cắc kè bông “ vì khi tôi đi ra thì vẫn còn thấy hắn còn ngồi “ làm việc “ tại dãy bàn gần bên. Cầm tấm giấy “ Chứng Nhận Đã Đăng Ky’ “ với Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố Đà Nẵng mà thấy yên tâm phần nào. Ít ra cũng có lá bùa chống lưng để không bị làm khó dễ. Xớ rớ một hồi là thấy anh bạn Trinh Sát tà tà ra cổng.

- Mày có bị “ quay “ gì không? Ý hỏi trước.

- Không. Nó chỉ thắc mắc là sao không còn giấy tờ gì hết. Tao nói không tin thì thôi. Không lẽ tự nhiên chui đầu vào đây làm chi cho khổ thân. Tao nghĩ là tụi nó sợ mình dấu cấp bậc hay chức vụ chánh thức. Còn mày?

- Mẹ! Thằng đó hỏi tao lung tung chuyện. Thì ra là một thằng “ nhảy núi “ vùng Duy Xuyên nên nó biết nhiều chuyện về Liên Đoàn của mình lắm. Nhưng rồi cũng xong. Bây giờ mình về ngủ cho khỏe rồi nhậu xả láng. Tao nghi sắp có chuyện gì rồi đó.

Tôi gật đầu. Nhưng thay vì về “ nhà “ chúng tôi ghé về chiếc quán bên Cầu Vòng rồi sau đó ghé qua nhà Quảng. Lần này chị Nhạn tiếp chúng tôi và nói Quảng và anh Dũng cũng đi trình diện chưa về. Họ đi rất sớm. Tôi nói là đông lắm, không thể nhận ra ai với ai, trừ khi ngồi thật gần nhau lúc còn chờ đợi. Khi xong xuôi thì ai nấy đều muốn rút cho nhanh để khỏi nhìn cảnh không vui mắt của anh em cựu sĩ quan, và mớ dép râu, nón cối, AK đang làm chủ phố phường, và nhứt là cái Ty Cảnh Sát bề thế đó.

Chúng tôi từ giả chị Nhạn và hẹn chiều sẽ trở lại. Câu chuyện trao đổi với nhau từ Nguyễn Hoàng về Độc Lập cũng chỉ xoay quanh chuyện lính tráng miền nam hiện còn bao nhiêu người đang kẹt lại. Nhiều lắm! Vậy mà bây giờ không biết ai là ai. Còn các “ quan “ thì cú rũ như con gà mắc mưa, như cá lia thia mất màu ôm sọc dưa bơi lòng vòng khi bị phùng mang hù dọa.

Vì tương lai vô định nên ngày dài thê lương. Không lẽ ngồi quán, hay long nhong ngoài đường hoài nên tôi định rủ “ cắc kè bông “ thả một vòng tìm nhà các bạn học Đà Lạt của tôi, nhưng anh bạn đòi về “ nhà “ nhậu nên kéo tôi trở lại Nguyễn Thái Học tìm mấy món đưa cay khoái khẩu của anh chàng. Biết bạn cần lãng quên đời và mình cũng không khá hơn chút nào nên tôi cũng theo hắn gom một mớ thuốc lá để dành đó.

Chúng tôi cụng ly trong im lặng. Mỗi người một tâm trạng. Nguyễn Văn Ý càng uống càng văng tục trống không. Phần tôi thì cứ nghĩ đến gia đình và người thân rồi lại lo cho tình cảnh trước mắt hơn là bám vào y’ định đào thoát như trước đây. Nghĩ lại mới hay tôi đã thầm bỏ cuộc khi có vẻ mừng rơn lúc tóm được mảnh giấy chứng nhận đã trình diện chánh quyền mới. Không dám nghĩ xa cho tương lai nên yên thân được ngày nào hay ngày đó. Những dự tính xuôi nam hay vượt biển chỉ trong một ngày đã tan biến đâu mất. Trạng thái buông xuôi và phó mặc cho số mạng càng ngày càng rõ nét trong đầu.

- Mày nghĩ gì mà ngồi thừ người như thế? Ý bất chợt hỏi tôi.

- Bâng quơ này nọ vậy thôi. Tao nhớ Sài Gòn. Tôi chỉ nói một phần suy nghĩ của mình.

- Tao cũng thế. Ba mẹ tao chắc đang lo lắng ghê lắm. Bạn thở dài. Buồn bã.

Câu chuyện sau đó trở thành những thở than cho số phận của chúng tôi và những người đồng cảnh ngộ. Phải chi vẫn còn hậu thuẫn của đồng minh thì có lẽ đã không ra nông nỗi. Thiếu úy quèn như chúng tôi thì không thể biết nhiều hay hiểu rộng nhưng cũng thấy được sự thật là chúng tôi không bại trận mà chỉ tự động buông vũ khí đồng loạt. Chính vì vậy sáng nay, gã cán bộ có nhiệm vụ cấp giấy tờ đã có nói tới hai chữ Tàn Binh khi đề cập tới những sĩ quan trình diện tại quận Nhứt. Và dĩ nhiên anh ta không bỏ qua cơ hội khoe mình là kẻ chiến thắng qua danh xưng “ Cách Mạng “.

“ Cách Mạng “ đã về thành. Còn Tàn Binh thì đang ở đâu? Trong số cả trăm ngàn quân nhân vùng Một chắc chắn có không dưới vài chục ngàn đã dồn về Đà Nẵng và số đông vẫn còn kẹt lại cả tuần nay. Họ đang ở đâu? Quan thì đang lần lượt ra trình diện. Còn lính thì sao? Những đồng đội gốc Sài Gòn của chúng tôi đang làm gì? Những gia đình trong các trại gia binh đã ra sao? Có được bao nhiêu người dắt díu nhau tìm về cố quận. Còn bao nhiêu gia đình tứ cố vô thân. Bao nhiêu đứa “ Con Bà Phước “ như chúng tôi đang lạc lõng khắp nơi. Bất giác tôi nghĩ đến chị Hương. Tôi còn nợ chị và anh Vũ Thành Công một mối ân tình chưa trả được. Hôm lộn xộn dưới bến phà, tôi đã xách súng lang thang một vòng rồi lạc luôn chị. Thương cho chị quá đỗi. Thân góa phụ đơn chiếc. Chồng mất xác tại Quảng Tín. Căn nhà trong trại gia binh chắc chắn chỉ còn bốn bức tường. Đường về Hố Nai thì dịu vợi. Nỗi đau đớn cùng cực không có lời diễn đạt. Thương anh chị quá Chị Hương ơi, anh Công ơi!

Và còn nữa. Ơi các Anh, các Bạn: những chiến hữu và đồng đội cùng những đứa em đã nằm xuống cho tôi được sống! Tôi nợ các Anh, các Bạn nhiều lắm. Món nợ máu xương của những ngày chinh chiến vừa qua. Tâm, Bình, Thanh, Tùng, Cẩm, Tú, Đặng Tri, Lê Văn Hữu, Lễ, Quang, Thông, Hoàng, Huệ, Hổ, Vạn, Công, Giáp, Minh, Y Biếc…và còn ai nữa không hỡi những anh linh tử sĩ trong quãng đời trung đội trưởng thật ngắn ngủi của tôi!? Xin hãy nhận nén hương lòng trong thoáng buồn bất chợt hôm nay. Một nỗi buồn pha lẫn nhục nhằn của thân phận cá chậu chim lồng ngay trên phần đất mà ngày xưa chúng ta đã một thời ngang dọc. Buồn quá! Thật là buồn quá đỗi!

23H00- Khi tôi choàng tỉnh thì không thấy “ Cắc Kè Bông “. Nhìn lại mới hay là mình đang nằm trên giường của gia chủ ở lầu một. Tôi ra hành lang nhìn xuống nhà bếp và phòng khách thì không thấy ánh đèn nên trở lên lầu hai rồi sân thượng. Vừa tới cửa là thấy ngay Ý đang ngồi tại cửa sổ, chân gác lên bàn. Chiếc radio cassette còn đang rè rè tiếng phát thanh gì đó nghe không rõ.

Tôi đến bên bạn, với tay lấy điếu thuốc trên bàn. Đến lúc này mới nhận ra hai mắt của bạn đỏ hoe. Hắn khóc! “ Yên Bái ” đang rơi lệ. Vì sao?! Tôi chưa kịp hỏi thì bạn nhoài người bật lửa cho tôi rồi cất giọng buồn bã.

- Khánh Dương và Dục Mỹ đã mất. Nha Trang đã di tản. Ông Thiệu cho dàn quân tại Phan Rang chờ tụi nó. Tin của BBC.

Tôi thừ người, lại rơi vào trũng buồn của suy tư. Vậy là Dục Mỹ và Đồng Đế của chúng tôi sẽ bị chúng nó san thành bình địa ngay. Hai chiếc nôi nuôi dưỡng sức sống của Quân Đội và Binh Chủng Mũ Nâu đã không còn. Thật buồn chán gì đâu. Bạn im lặng hồi lâu rồi chợt mĩm cười.

- Xuống tắm rửa đi cha nội. Mày ói mửa tùm lum. Lảm nhảm đủ thứ. Biệt Động Quân gì mà yếu xìu! Mấy hớp bách nhật cũng chịu không nỗi. Nhậu với mày chán quá đi!

Biết bạn đùa, tôi chỉ gượng cười im lặng. Nghĩ tới những gì bạn đang bận tâm thì tôi thấy lo lắng. Chỉ sợ hắn nghĩ bậy rồi làm bậy. Thấy tôi liếc nhìn hết túi áo đến túi quần, rồi đảo mắt tìm tòi trên bàn thì bạn hiểu.

- Đừng lo! Tao tặng cái trứng cút đó cho hà bá rồi.

- Hồi nào vậy?

- Hồi trưa này. Biển Nam Ô. Tao không nói xạo đâu. Mày lo tắm đi . Hôi như cú đấy.

Tôi xuống lầu, trong lòng bán tín bán nghi nhưng có phần nào an tâm. Lại sắp qua một ngày dài và tương lai thì đã lần hồi rõ nét. Chúng tôi đang ở trong một ngục tù bao la và xiềng xích còn đang ở dạng vô hình. Không thấy dấu hiệu ngược đãi khi chánh thức đối diện với “ kẻ chiến thắng “ tại quận Nhứt nhưng chắc chắn không thể tin bề ngoài tưởng chừng như rất bình lặng của mấy ngày nay. Họ đang có âm mưu gì không? Vì sao không cần biết chúng tôi đang ở đâu trong thành phố này!? Và trong đêm thao thức chúng tôi chỉ biết thở dài rồi lập lại điệp khúc “ Tới đâu hay tới đó “. Cứ biết mình còn sống cái đã!

THỨ NĂM 03-04-1975. 07H30
Tiếng đập cửa làm chúng tôi choàng dậy. Hồi hộp và hoang mang. Ai vậy!? Chỉ có tiếng đập mạnh vào cửa sắt. Không nghe rõ tiếng ai gọi. Khi chúng tôi rón rén xuống lầu, đến cửa ngoài thì không còn thấy ai cũng không nghe gì ngoài tiếng xe cộ và bộ hành qua lại. Tôi định mở cửa, ra ngòai xem sao nhưng “ Cắc Kè Bông “ cản lại.

- Không nên! Mở cửa là vọt luôn. Lóng nhóng lỡ như đám chó săn đó thấy thì rắc rối lắm. Cứ từ từ xem sao. Hy vọng là người nhà hay bà con của thằng Tiến. Nếu đúng thì thế nào họ cũng quay lại.

Chúng tôi trở lên lầu bàn tính một hồi rồi quyết định ra khỏi nhà, đảo một vòng xa xa, đứng ở hai đầu đường nhìn lại và chờ xem có phải là đám chỉ điểm đang giở trò hay đó là người thân của gia chủ vừa ghé qua. Nhưng không thấy gì khả nghi sau cả tiếng xớ rớ bên kia đường. Nhìn chung thì vẫn còn khá nhiều nhà đóng kín cửa. Vài tiệm buôn, cửa hiệu chỉ mới gượng gạo bày hàng cho có lệ. Dòng người vẫn ngược xuôi theo nhịp tiến triển rề rà của một ngày sinh hoạt. Không có ai đừng lại trước “ nhà “, cũng không thấy nhóm dân quân hay nón cối nào kéo nhau đi xét hỏi. Vậy những người ban nãy là ai? Sau cùng, chúng tôi bỏ cuộc và thả một vòng tìm quán ngồi giết thì giờ.

Vẫn là những cảm giác trống rỗng khi lang thang qua những con đường quen thuộc. Sau mấy ngày “ dị ứng “ với chiếc nón cối và đôi dép râu, chúng tôi cảm thấy lần hồi quen mắt với hình ảnh của những màu kaki Nam Định trên đường phố Đà Nẵng. Rõ ràng là họ mới thấy phố thị lần đầu. Dù cố gắng không để lộ tình cảm, nhưng ánh mắt và dáng điệu đã cho thấy đây là lần đầu họ chứng kiến tận mắt cảnh phồn hoa đô hội của miền Nam.

Đà Nẵng đang gượng dậy để sinh tồn mặc dù tương lai vẫn vô định. Giữa những tiếng phát thanh có tính cách tuyên truyền nhiều hơn là thời sự, đã có những lời kêu gọi bình thường hóa sinh hoạt về mọi mặt. Nhưng điển hình nhứt vẫn là kinh tế hằng ngày. Con người vốn thích ứng với hoàn cảnh nên đó đây đã thấy cảnh hỏi han, mời mọc, chào hàng cùng những họat cảnh quen thuộc tại những khu thương mãi, đặc biệt là Chợ Cồn.

13H00.
Đi mãi cũng chán nên tôi rủ “ Cắc Kè Bông “ xuống Nguyễn Hoàng như lời đã hứa với chị Nhạn hôm qua. Nhưng khi tới nhà Võ Đại Quảng thì “ Cắc Kè Bông “ lắc đầu nói là muốn về Tam Tòa tìm Phú “ Tao muốn biết thêm tin tức của đám Trinh Sát và nhậu với thằng Phú một bữa cho đã. “ Chúng tôi chia tay sau lời hẹn của Ý là sẽ quay lại tìm tôi vào buổi chiều.

Quảng giới thiệu tôi với người anh rể và sau vài câu chuyện xã giao với viên Trung úy thuộc phòng Hành Chánh Tài Chánh của Tiểu Khu là tôi theo bạn về phòng. Chúng tôi nghe nhạc trong thinh lặng, thỉnh thoảng lại kể vài câu chuyện của mỗi đứa lúc còn ở đơn vị. Sau đó là những câu đoán già đoán non về Trần Hiền và những ai đã may mắn thóat khỏi Đà Nẵng. Rồi đến những âu lo, thấp thỏm ngày đêm về hiện tình xã hội và thân phận của những người lính miền Nam.

Nếu đúng như lời của các đài BBC, VOA loan báo thì bộ đội bắc việt đang lo tập trung quân để lấn dần xuống phía nam. Vậy nón cối từ đâu ra mà vẫn thấy đi đầy đường!? Sau cùng chúng tôi nhận ra được sự thật phũ phàng là hiện nay Đà Nẵng đang nằm trong tay của đám nằm vùng, cùng với mớ du kích “ nhảy núi “ và dân quân của những vùng quê lân cận. Chủ lực quân và bộ đội chính quy dấu mặt nơi nào không rõ. Hay có thể họ chỉ lo bảo vệ vòng ngoài còn bên trong là để đám địa phương lo mọi chuyện. Như vậy mới phù hợp với chiêu bài “ Mặt Trận Giải Phóng “ đang cùng nhân dân lật đổ chế độ “ Mỹ Ngụy “ . Càng nghĩ càng thấy buồn nản, chán chường khi quyền lực đã nằm trong tay kẻ địch. Đành là chúng tôi vẫn còn sống nhưng là sống trong tâm trạng của cá nằm trên thớt. Không biết ngày mai sẽ ra sao. Không thấy chút ánh sáng nào ở cuối đường hầm. Và ngày đêm cứ nơm nớp lo sợ không biết lúc nào sẽ có tiếng gõ cửa, gọi tên mình.

- Đã xảy ra rồi! Quảng thở dài. Dễ gì đám khốn nạn đó bỏ qua cơ hội đi đến từng nhà “ hỏi thăm sức khỏe “ tụi mình. Chị Nhạn nói là lúc anh Dũng và tao vừa đi trình diện không bao lâu thì mấy thằng đeo băng đỏ đã xuất hiện ngay trước cửa rồi. Rõ ràng là khủng bố tinh thần chứ còn gì nữa.

Nằm nghe nhạc mãi cũng phát chán nên tôi rủ Quảng thả một vòng cho vơi bớt cảm giác bị tù túng, và quên luôn lời hẹn với Nguyễn Văn Ý hồi trưa. Những bước chân vô định dẫn chúng tôi về ngang những đường phố chính để thấy những suy luận vừa qua là đúng. Đa số những gương mặt gọi là “ cách mạng “ mà chúng tôi gặp trên đường đều đội mũ tai bèo. Và những kẻ đội nón cối mang dép râu thì không có đến một bộ quân phục cho tươm tất: áo thì màu cháo lòng còn quần mang màu xanh ngụy trang rất lạ mắt. Tan hàng và tự động buông vũ khí để nộp mạng cho đám quân ô hợp này thật là nhục nhã gì đâu!

Lòng vòng một hồi mới hay đã ra tới Độc Lập.Tôi chỉ cho Quảng ngôi nhà mà Ý và tôi tá túc mấy ngày nay thì bạn reo lên:

- Tao biết người trong nhà này. Thằng Mạnh học chung với tao ở Phan Chu Trinh. Tao ở lại lớp, còn nó vào Sài Gòn học Khoa học. Mới hồi Tết nó có về thăm nhà. Mấy anh em đứa nào cũng học rất giỏi. Ba nó quen lớn vì là thầu khoán nên chắc chắn là vọt được rồi.

Tôi chưa hết ngạc nhiên thì từ bên trong có người mở cửa. Là Tiến! Đứa em bạn vừa lách ra ngoài theo sau là hai người một nam, một nữ. Trên tay mỗi người là một túi xách. Nhìn lại mới thấy ngay bên lề đã có hai chiếc xe gắn máy chờ sẵn. Bốn người, hai xe với túi và giỏ máng đầy trên tay lái, phóng đi thật nhanh. Tiến vừa quay vào thì tôi kéo Quảng lướt qua đường. Vừa mừng vừa ngạc nhiên, tôi hỏi nhanh:

- Trở lại đây lúc nào vậy Tiến?!

Đứa em bạn cũng mừng rỡ không kém, kéo ngay chúng tôi vào nhà, khóa nhanh cửa rồi cùng ra nhà sau ngồi hàn huyên.

- Em may mắn quá giang mấy bận xe hàng về tới Huế trong ngày. Cũng nhờ số tiền của mợ bỏ quên nên tha hồ chi đẹp. Thêm thẻ học sinh và mấy câu chào mừng cách mạng thành công là thoải mái qua các trạm kiểm soát an ninh. Đến nhà thì thấy mẹ và chị đã trở về trước. Thì ra bà cụ bị kẹt tại Truồi, ngã bệnh vì đuối sức. May nhờ người tốt bụng cho vào nhà nằm đỡ rồi sau đó cũng quá giang xe về lại Huế. Thấy em về thì mẹ mừng lắm, nhưng mẹ hối em trở vào ngay để tìm bà con của mợ. Mẹ nói bất cứ giá nào cũng phải giữ căn nhà. Biện pháp tốt nhất là phải có người vào ở cái đã. Sau đó cứ nói là mất tờ khai gia đình. Rồi tới đâu thì tới. Dù sao cũng ở ngay thành phố lớn. Họ không dám làm bậy đâu. Mẹ nói là nói vậy chứ còn người em và cháu của mợ khi nãy thì sợ không dám giữ nhà nên cùng bàn với nhau là có cái gì quí giá thì lấy đi trước. Nếu cần thì bỏ nhà trống cho tụi nó tịch thu. Vì thế từ trưa tới giờ đã chuyển được mấy bận rồi. Em của mợ nói là sáng nay hai vợ chồng có ghé qua gọi cửa cầu may. Nhưng không thấy gì nên bỏ đi, không dám ở lại lâu vì sợ bị dòm ngó hay bị tụi nằm vùng bắt gặp. Chỉ cần nó nghi ngờ hay vu cáo mình là dân hôi của là đủ tàn đời. Em của mợ nói như thế đấy. Còn bây giờ thì cứ hốt đại vài món rồi tính sau. Ngày mai, hay cùng lắm là mốt thì em sẽ trở ra Huế. Căn nhà này để cho em của mợ lo liệu.

Tôi biết đã đến lúc không nên ở lại nơi này nên lên lầu gom mấy gói thuốc lá còn lại, chọn thêm một bộ quần áo còn khá tốt rồi dặn dò Tiến cho Ý biết tôi đang ở với Quảng nếu hắn có về đây tìm tôi. Tiến muốn tôi ở lại trông nhà nhưng tôi nói nên thuyết phục người thân của gia chủ vẫn hơn. Chúng tôi quyến luyến chia tay nhau sau lời hẹn gặp tại chiếc quán quen thuộc trên đường Hùng Vương vào ngày mai nếu Tiến chưa trở ra Huế.

Trở về nhà Quảng thì vẫn không nghe nói có “ Cắc Kè Bông “ ghé lại tìm tôi. Có lẽ hắn còn nhậu hay đã xỉn tại nhà Phú hay đâu đó trong Tam Tòa rồi không chừng. Sau bữa cơm tối với Quảng và gia đình anh chị của bạn, tôi quyết định về nhà Trần Hiền. Còn căn nhà này đã có hai sĩ quan “ Ngụy “, thêm một người là thêm một nỗi lo bị đám địa phương dòm ngó. Sợ cộng sản quá nên đâm ra lo ngại đủ thứ, hay những câu chuyện gõ cửa xét nhà, chụp mũ, và trả thù vô tội vạ đã ám ảnh chúng tôi nên vô hình chung đã tạo một cảm giác phập phồng, hồi hộp mỗi lần nghĩ đến đám lấy điểm đang làm mưa làm gió trong từng khu phố?!

Sự niềm nở của mọi người trong nhà người đồng môn Khóa 8 Chánh Trị Kinh Doanh làm tôi có cảm giác như đang trở về với gia đình của mình. Trần Hiền vẫn bặt vô âm tín và cả nhà cũng hết cách truy tìm. Vẫn là những lời an ủi nhau để cùng hy vọng. Tôi lại trăn trở gần như cả đêm để nghĩ ngợi miên man về mọi thứ trên đời. Nhứt là quyết định vào tân cảng rạng sáng ngày 29-03 để rồi kẹt luôn tại đó thay vì theo các đàn anh chạy tìm phương tiện vượt biển. Có phải mình đã quá hèn kém tới mức chấp nhận hòan cảnh và hoàn toàn thụ động cả tuần qua thay vì bương chải đi tìm một lối thoát khi vẫn còn cơ hội!? Câu hỏi chập chờn theo vào giấc ngủ và câu trả lời hình như đã có sẵn từ lâu, chỉ tại dối lòng mà chối bỏ nó mà thôi.

THỨ SÁU 04-04- 1975.
Tôi choàng dậy khi có tiếng em rể Trần Hiền lay gọi. Chưa kịp hỏi thì Ngàn có vẻ lo lắng nói ngay.

- Anh ngủ như chết. Trưa rồi mà không thấy cục cựa nên mẹ nói em gọi anh dậy đó.

Đã hơn 12 giờ trưa! Giấc ngủ mệt nhoài làm tôi choáng váng khi xuống giường. Không được. Tôi nhủ thầm. Bạc nhược thế này thì tiêu đời là cái chắc. Khi ngồi vào bàn ăn mới thấy tỉnh táo lại đôi chút. Tôi nói không sao để trấn an những đôi mắt nhìn tôi, lo lắng. Nhưng cũng chỉ ăn cho có lệ rồi buông đũa góp lời bàn chuyện với cả nhà. Chừng nửa tiếng sau đó là tôi lại ra đường. Mục đích là trở lại căn nhà trên Độc Lập để tìm Tiến và Nguyễn Văn Ý.

Nhưng căn nhà nằm tắm nắng im lìm, và vì không dám gõ cửa nên tôi tần ngần đứng bên kia đường nhìn qua một hồi rồi mới vòng qua khu cà phê lộ thiên góc Hùng Vương,Yên Bái. Nhâm nhi cà phê, lóng nhóng tìm bóng dáng bạn và cả em Tiến trong số người qua lại mà cảm thấy trong lòng buồn bực gì đâu! Không thấy họ đâu và ngồi mãi cũng chán, nên tôi trả tiền rồi nhắm hướng Chợ Cồn thả chân đi. Đến góc Phan Chu Trinh thì thấy tiệm kiếng đối diện với xi nê Trưng Vương đã mở cửa lại, nên tôi ghé vào đặt mua một cặp kiếng cận để dành đó. Gía cả như muốn “ đụng nóc nhà “ nhưng tiền còn xài được thì cứ xài. Lo cho cặp mắt cái đã.

Lại không biết phải đi đâu. Lang thang trên phố thì chỉ thêm khó chịu khi nhìn ba mớ nón cối, dép râu, AK, nón tai bèo, nên tôi ghé Chợ Cồn mua thêm vài gói thuốc lá, vài gói trà, một mớ thực phẩm khô để “ góp gió “ với gia đình Trần Hiền rồi tạt qua Nguyễn Hoàng. Võ Đại Quảng đang sầu đời không muốn ra khỏi nhà nên mừng rỡ khi thấy tôi xuất hiện. Lần này chỉ có hút thuốc, uống trà, nghe nhạc. Không có lời trao đổi, bàn luận về bất cứ chuyện gì. Dù không thể lãng quên đời nhưng mấy tiếng đồng hồ nghe đi nghe lại những bản nhạc lính, nhạc tình cũng đủ để khỏa lấp hay đánh lừa phần nào tâm trạng rã rời của chúng tôi.

Chị Nhạn giữ lại ăn cơm nhưng tôi từ chối. Tôi muốn vào Tam Tòa tìm nhà Phú để hỏi về tin tức của “ Cắc Kè Bông” nhưng khi về đến nhà Trần Hiền thì nghe nói Ý có ghé tìm tôi và nhắn là sẽ trở lại ngày mai. Chút tin vui làm tôi an lòng và bữa cơm tối với gia đình bạn có phần ngon miệng hơn ban trưa. Tấm thạnh tình của mọi người trong những lúc này thật đẹp làm sao!

20h00- Chưa biết làm gì cho qua buổi tối thì anh Năm và anh Hải đã qua rủ Ngàn và tôi qua nhà nhậu và binh xập xám. Cũng chỉ là cái cớ để cho đầu óc bớt căng thẳng vì những ngày vô định sắp tới. Vài mẫu chuyện bâng quơ, vài câu trao đổi, dự đoán, suy diễn về tình hình chiến sự trong nam chưa kịp làm cho lòng vơi bớt não nề thì chị Hải từ trong phòng ra cho hay có tin của VOA và cả BBC loan báo Đà Lạt đã di tản và Phan Rang đang trở thành địa đầu giới tuyến.

Chúng tôi nhìn nhau im lặng, ngao ngán. Lại thấy buồn bực trong lòng. Vậy là cao nguyên coi như tặng không cho địch. Đà Lạt di tản có nghĩa là Bảo Lộc cũng sẽ tan hàng. Lính tép riu cũng có thể hình dung được gọng kềm của địch chỉ còn khoảng trên dưới 300km, và đang từ hướng tây và hướng bắc ép dần về Sài Gòn. Sẽ cầm cự được bao lâu. Có giải pháp nào không ? Và số phận của chúng tôi sẽ ra sao? Buồn quá!

Cuộc nhậu coi như dở dang nửa chừng. Xòng bài cũng không còn hứng để tập trung đầu óc. Chúng tôi chỉ biết ngồi bàn ra tán vào như đã từng làm trước đây để rồi tan hàng sớm hơn dự định. Khi trở về nhà, Ngàn vì thấy tôi buồn chán quá đổi nên gọi Thuận thức dậy pha cà phê ngồi bắt tôi kể chuyện Đà Lạt và đem ảnh của Trần Hiền ra xem với nhau. Thật là cảm động làm sao!

THỨ BẢY 05-04-1975 . 5H00
Chợp mắt chưa bao lâu thì đã nghe tiếng xe chạy và có người dùng loa phóng thanh loan báo lời kêu gọi của “Uỷ Ban Quân Quản “ : Yêu cầu các Sĩ Quan Quân Đội SàiGòn tập họp tại Ty Cảnh Sát Quận Nhứt để đi học tập cải tạo từ 7giờ tới 9 giờ sáng. Chiếc xe cứ thế mà đảo tới đảo lui nhiều vòng làm cả nhà thức dậy luôn tới sáng. Tôi đang ngồi uống trà với ba mẹ Trần Hiền và Ngàn thì anh Hải đã bước vào, nói ngay với tôi sau khi chào mọi người.

- Mình đi ngay cho kịp giờ. Chỉ có hai tiếng thôi. Cứ để cho tụi nó lãi nhãi đã đời. Chịu đựng cho xong rồi thả một vòng uống cà phê cũng còn sớm chán.

Ai nấy đều gật đầu tán đồng. Chúng tôi rời nhà trong cơn mát lạnh của buổi sáng không có ánh nắng. Trên đường từ Trần Cao Vân đến Cường Để có nhiều nhóm người đi cùng hướng với chúng tôi nhưng không ai bắt chuyện với ai. Khi đến nơi thì đã thấy có nhiều xe gắn máy và xe đạp dựng sẵn ngoài cổng và bên trong đã có khá đông người tụ tập trong sân cờ của Ty Cảnh Sát.

Đã 7 giờ sáng nhưng không thấy động tịnh gì cả. Khu văn phòng vẫn đóng kín cửa. Bên ngoài lác đác vài nhóm bộ đội tới lui canh gát, giữ an ninh trật tự và hướng dẫn những người đến sau vào trong sân ngồi theo hàng lối. Không có dấu hiệu của một cuộc “ lên lớp “. Thỉnh thoảng có vài cán bộ xuất hiện, chỉ trỏ, chụp hình, bàn tính gì đó rồi thôi.

Chúng tôi bắt đầu hoang mang và lo lắng khi ngồi chờ đã lâu mà không ai trong đám “ cách mạng “ nói năng gì về vụ học tập. Những câu chuyện hàn huyên, hỏi han, bàn tán xì xầm đã lắng dần lúc nào không biết. Lại trầm ngâm qua khói thuốc. Lại thấy bụng thắt lại từng hồi. Tâm trạng buồn nản đến mức không còn muốn ngẩng đầu tìm người quen như lúc mới đến. Sự chờ đợi nào cũng dài đăng đẳng, nhưng trong hòan cảnh này thì càng thêm bi đát và não lòng.

9H00- Chúng tôi giật mình vì bỗng nhiên còi hụ khắp nơi. Những hồi còi vang rền như tiếng báo động khẩn cấp.Và trên lô cốt của vọng gát bỗng xuất hiện những tên bộ đội trang bị úng ống đầy đủ. Phòng ốc đồng loạt mở cửa. Một toán bộ đội túa ra bao vòng sân cờ. Theo sau là những tên có vẻ là cán bộ cao cấp. Trong số này có một người cao lớn, da trắng, trông rất giống một gã Nga Sô. Có thể là một cố vấn không chừng. Còn đang sững sờ đến xanh mặt thì cổng chánh đã đuợc đóng lại, có bộ đội đứng chắn bên ngoài. Một số dân chúng tò mò định dừng lại xem thì bị quát tháo xua đuổi không tiếc lời, thậm chí có tiếng lên đạn.

Chưa kịp hoàn hồn thì xen kẽ trong tiếng còi hụ từng hồi là tiếng phát thanh lưu động bằng xe Lam và những phương tiện giao thông khác liên tục loan báo lệnh giới nghiêm trong toàn thành phố Đà Nẵng: Bắt đầu vào lúc 9 giờ sáng cho đến khi có lệnh mới!
Không bao lâu sau, Đà Nẵng chìm trong im lặng. Lại là sự im lặng của khuất phục và chấp nhận. Bên ngoài chỉ có tiếng xe phát thanh. Bên trong vòng rào chỉ có tiếng dép râu qua lại. Mấy trăm người trong sân cờ ngồi im nín thở chờ tai họa.

Họ đang làm gì?! Đang âm mưu gì?! Tại sao phải giới nghiêm Đà Nẵng?! Còn đám bộ đội đang lăm le AK chỉa thẳng vào chúng tôi nữa. Tuy không thấy sát khí đằng đằng nhưng nhìn họng súng đã lên đạn cũng thấy lạnh mình, nhột gáy. Chúng nó đang khủng bố tinh thần mọi người. Tôi nhủ thầm và dặn lòng phải bình tĩnh dù đã bắt đầu thấy đắng cổ. Tay đốt thuốc đã thấy run run. Chắc chắn không phải vì cảm thấy đói.

12H00- Vẫn không có gì thay đổi ngoại trừ đám cán bộ đang xuất hiện mỗi ngày một đông. Không một lời nói. Không một câu tuyên bố. Mấy trăm người cũng ngồi yên phơi nắng và cúi mặt chịu đựng. Một số cần đi vệ sinh được cho vào bên trong, có nón cối kè súng dẫn vào. Lại hút thuốc để trấn áp nỗi lo lắng cùng cực. Đang lúc hoang mang thì bánh mì được mang ra cho mọi người cầm hơi với nước lã. Ăn cái đã! Rồi tới đâu thì tới! Chút bánh và nước làm tinh thần tỉnh táo đôi chút. Nhưng vẫn là sự chờ đợi đến nghẹt thở, khờ người.

14H00- Đến bây giờ mới có một cán bộ, chắc là cấp lớn vì có súng ngắn và chiếp cặp da đeo gọn gàng bên hông, cùng với mớ sổ sách hay giấy tờ gì đó trên tay, từ đám đông tách ra nói đại khái vài câu trấn an chúng tôi và cho biết là họ đang chờ gom góp phương tiện để chở chúng tôi đi đến một nơi khác. Giới nghiêm Đà Nẵng là ”… để cách mạng dễ dàng kiểm soát và đảm bảo an ninh cho các anh, đồng thời truy tìm những ai ngoan cố trốn tránh không chịu ra trình diện để đi cải tạo …”

Nghe xong câu nói và nhớ lại lời phóng thanh ban sáng thì chúng tôi mới vỡ lẽ mọi chuyện. Thì ra họ chơi chữ và chúng tôi ngây thơ nên cứ tưởng là chỉ học tập trong vòng có hai giờ đồng hồ mà thôi. Nhìn lại mới thấy thẹn lòng đến mức muốn độn thổ. Một số đông rầu rĩ lo lắng cho mớ xe cộ còn bỏ ngoài cổng. Số khác thì hối hận vì mặc áo quần, mang giày dép bảnh bao như dạo phố. Chỉ có một điều an ủi duy nhứt là biết chắc mình còn sống. Sống để chờ đợi một định phận nào đó đã dành sẵn cho mình.

17h00- Một đoàn Molotova, rồi cả xe vận tải dân sự chạy đến xếp hàng bên ngoài. Chúng tôi được chia ra từng toán ba, bốn mươi người tùy theo sức chứa của các loại xe. Kể từ giờ phút này trở đi chúng tôi không khác gì tù nhân ngoại trừ không đeo còng hay bị trói tay mà thôi và mọi cử động đều bị những cặp mắt cú vọ mang AK lườm lườm theo dõi thật sát.

Nhóm chúng tôi được chỉ định lên một chiếc xe hàng, loại vận tải hạng nặng có thùng xe bít bùng, ngộp thở. Bên trong có hai tên bộ đội, một ở sau ca bin tài xế và một ngay cạnh tấm bửng lên xuống. Cả hai còn rất trẻ, mặt lạnh lùng, mắt như muốn trợn trừng, nhìn quanh không chớp, AK cặp hông chĩa mũi xéo lên mui. Mọi người ngồi chen chúc trên sàn, ngoan ngoản chịu đựng trong im lặng.

Xe chuyển bánh trong cơn mưa giông bất chợt. Đà Nẵng giới nghiêm, phố phường vắng ngắt. Qua khe hở ti hí ngay cạnh chỗ ngồi, tôi chỉ nhìn được những khoảng lề nhòe nhoẹt lướt qua. Không thể định hướng rõ ràng nên chỉ đoán là đoàn xe đang rẽ qua Độc Lập. Đà Nẵng bị giới nghiêm nên không nhìn thấy đoàn con đang rời thành phố. Trời sầu. Đất thảm. Và con người thì buồn bã, cay đắng, âu lo. Bây giờ thì chỉ biết phó mặc cho số mạng và chấp nhận hoàn cảnh mà thôi.

Bất giác tôi nhìn qua anh Hải rồi chợt nhớ là từ sáng đến giờ không thấy Ý, Quảng và anh Dũng đâu cả. Họ đang ở đâu. Có mặt trong nhóm tù hay không? Nghĩ đến bạn rồi chạnh lòng nghĩ đến những đồng đội còn đang cầm cự với địch đâu đó trong chiến trường miền nam mà cảm thấy buồn vô hạn. Vài lời kinh nguyện chung cho họ và cho cả chúng tôi để tìm chút an bình và niềm tin để sắp sẵn cho những gì sắp xảy đến. Tương lai chưa biết sẽ thế nào. Còn hiện tại thì đen tối như đám mây mù đang trút nước. Trên xe hoàn toàn im lặng. Vẫn là thứ im lặng trong lo âu và sợ sệt của những kẻ không biết ngày mai sẽ ra sau. Thật là một ngày buồn đầy xót xa và tủi hận cho chúng tôi: những Sĩ Quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những chiến sĩ trở thành tù nhân không phải vì bại trận mà chỉ vì thời cuộc đảo điên và vì thế cờ chánh trị đã đến giai đoạn kết thúc. Cũng đành vậy thôi!

HUY VĂN

( Thân tặng Thiếu úy Nguyễn Văn Ý, Thiếu úy Võ Đại Quảng, đồng đội, chiến hữu, cùng những em bạn thân quen, xa gần, để nhớ thành phố Đà Nẵng trong những ngày đầu thay đổi chế độ )